Bộ KH&CN ban hành Thông tư quy định mã số và tiêu chuẩn chức danh khoa học, công nghệ

<p>Thông tư có hiệu lực kể từ ngày ký và được áp dụng đối với viên chức giữ chức danh khoa học, chức danh công nghệ trong các đơn vị sự nghiệp công lập, đồng thời là cơ sở để các cơ quan, tổ chức và cá nhân có liên quan triển khai thực hiện.</p>

Ngày 28/11/2025, Bộ Khoa học và Công nghệ đã ban hành Thông tư số 37/2025/TT-BKHCN quy định mã số, tiêu chuẩn chức danh khoa học, chức danh công nghệ; thành tích, kết quả khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo (KH,CN&ĐMST) để xét bổ nhiệm vào chức danh khoa học, chức danh công nghệ cao hơn không phụ thuộc vào năm công tác.

Theo Thông tư, mã số được quy định thống nhất đối với hai nhóm chức danh:

Nhóm chức danh khoa học gồm: Nghiên cứu viên cao cấp (hạng I), mã số V.05.01.01; Nghiên cứu viên chính (hạng II), mã số V.05.01.02; Nghiên cứu viên (hạng III), mã số V.05.01.03; và Trợ lý nghiên cứu (hạng IV), mã số V.05.01.04.

Nhóm chức danh công nghệ gồm: Kỹ sư cao cấp (hạng I), mã số V.05.02.05; Kỹ sư chính (hạng II), mã số V.05.02.06; Kỹ sư (hạng III), mã số V.05.02.07; và Kỹ thuật viên (hạng IV), mã số V.05.02.08.

Bộ KH&CN ban hành Thông tư quy định mã số và tiêu chuẩn chức danh khoa học, công nghệ- Ảnh 1.

Mã số được quy định thống nhất đối với hai nhóm chức danh, gồm nhóm chức danh khoa học và nhóm chức danh công nghệ.

Việc thiết lập mã số thống nhất nhằm đảm bảo tính đồng bộ, minh bạch, tạo thuận lợi trong quản lý, sử dụng và phát triển đội ngũ viên chức KH&CN. 

Theo đó, Thông tư quy định tiêu chuẩn chung đối với chức danh khoa học và chức danh công nghệ, yêu cầu viên chức tuân thủ nguyên tắc liêm chính khoa học, đạo đức nghề nghiệp trong hoạt động nghiên cứu và phát triển công nghệ theo Nghị định số 262/2025/NĐ-CP ngày 14/10/2025 của Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật KH,CN&ĐMST về thông tin, thống kê, đánh giá, chuyển đổi số và các vấn đề chung.

Ngoài các tiêu chuẩn chung, viên chức ở từng hạng phải đáp ứng các yêu cầu cụ thể về trình độ đào tạo, bồi dưỡng và năng lực chuyên môn, nghiệp vụ. 

Ví dụ, đối với chức danh Nghiên cứu viên cao cấp (hạng I), viên chức phải có bằng tiến sĩ phù hợp với lĩnh vực nghiên cứu và yêu cầu vị trí việc làm; có chứng chỉ bồi dưỡng chức danh nghiên cứu khoa học. 

Trường hợp vị trí việc làm viên chức yêu cầu có chứng chỉ hành nghề theo quy định của pháp luật, viên chức có chứng chỉ hành nghề được sử dụng thay thế chứng chỉ bồi dưỡng chức danh nghiên cứu khoa học tương ứng.

Cùng với đó, viên chức giữ hạng I phải có khả năng nghiên cứu chuyên sâu, tổng kết thực tiễn, đề xuất giải pháp chiến lược; có năng lực tổ chức thực hiện nhiệm vụ KH,CN&ĐMST; có khả năng kết nối hợp tác quốc tế và tham gia các hội đồng khoa học; đồng thời đáp ứng yêu cầu sử dụng ngoại ngữ hoặc tiếng dân tộc thiểu số khi cần thiết. 

Viên chức giữ hạng I cũng cần có thành tích KH&CN đạt mức điểm quy đổi theo quy định, từ công bố khoa học quốc tế, sáng chế được bảo hộ và áp dụng thực tiễn hoặc đóng góp khoa học tương đương.

Viên chức thăng hạng từ nghiên cứu viên chính (hạng II) lên nghiên cứu viên cao cấp (hạng I) phải có thời gian giữ chức danh nghiên cứu viên chính (hạng II) hoặc tương đương từ đủ 06 năm trở lên. Trường hợp có thời gian tương đương, phải có ít nhất 01 năm (đủ 12 tháng cộng dồn) giữ chức danh nghiên cứu viên chính (hạng II) tính đến ngày hết thời hạn nộp hồ sơ đăng ký dự xét thăng hạng.

Thông tư cũng nêu rõ nguyên tắc xét bổ nhiệm vào chức danh khoa học, công nghệ cao hơn mà không phụ thuộc vào năm công tác nếu viên chức đáp ứng đủ các tiêu chuẩn về trình độ, năng lực và kết quả hoạt động chuyên môn theo quy định của từng hạng chức danh. Các điều kiện này bao gồm bằng cấp, chứng chỉ đào tạo, thành tích nghiên cứu khoa học, công bố khoa học, nhiệm vụ khoa học và công nghệ tham gia hoặc chủ trì, cùng các tiêu chí định lượng được quy đổi thành điểm theo quy định của Thông tư.

Thông tư có hiệu lực thi hành kể từ ngày 28/11/2025.