Bộ Khoa học và Công nghệ trả lời kiến nghị của cử tri thành phố Cần Thơ gửi tới sau Kỳ họp thứ 9, Quốc hội khóa XV

<p>Công văn số <a class="link-inline-content" href="https://mic.mediacdn.vn/639352410187198464/2025/10/1/5106-cv0001-17593193095861195117623.PDF" rel="nofollow" target="_blank" title="5106/BKHCN-VP" data-rel="nofollow">5106/BKHCN-VP</a> ngày 26/9/2025 của Bộ Khoa học và Công nghệ về việc trả lời kiến nghị của cử tri thành phố Cần Thơ gửi tới sau Kỳ họp thứ 9, Quốc hội khóa XV.</p>

Bộ Khoa học và Công nghệ nhận được kiến nghị của cử tri thành phố Cần Thơ do Ủy ban Dân nguyện và Giám sát chuyển đến theo văn bản số 1099/UBDNGS15 ngày 29/7/2025 và Văn phòng Chính phủ chuyển đến theo văn bản số 7291/VPCP-QHĐP ngày 05/8/2025.

Nội dung kiến nghị số 1:

Đề nghị xem xét đề xuất hoặc sớm ban hành theo thẩm quyền các chính sách cụ thể về thu hút phát triển khu công nghệ số tập trung, để đầu tư phát triển ngành công nghiệp bán dẫn, phát triển nguồn nhân lực số,… tại từng địa phương trong đó có thành phố Cần Thơ, nhằm góp phần sớm thực hiện hoàn thành các chỉ tiêu, mục tiêu phát triển khoa học, công nghệ của cả nước theo chủ trương đã đề ra[1].

Sau khi nghiên cứu, Bộ Khoa học và Công nghệ (KH&CN) có ý kiến trả lời như sau:

Ngày 14/6/2025, Quốc hội đã ban hành Luật Công nghiệp Công nghệ số, trong đó quy định các chính sách hỗ trợ, khuyến khích phát triển các khu công nghiệp công nghệ số tập trung. Đồng thời, Bộ KH&CN đã phối hợp với Bộ Tài chính để nghiên cứu, đưa các chính sách ưu đãi cụ thể vào trong hệ thống pháp luật hiện hành, bao gồm các quy định tại Luật và các nghị định hướng dẫn liên quan đến đầu tư, thuế thu nhập doanh nghiệp, hải quan, thuế xuất khẩu, nhập khẩu và các chính sách ưu đãi khác.

Bên cạnh đó, Bộ KH&CN đang xây dựng, gửi xin ý kiến các bộ, ngành, địa phương dự thảo Nghị định của Chính phủ quy định về khu công nghiệp công nghệ số tập trung; dự kiến hoàn thiện, trình Chính phủ trong tháng 11/2025.

Nội dung kiến nghị số 2:

Đề nghị quan tâm xem xét, sớm đề xuất các chính sách cụ thể nhằm giúp và hỗ trợ người dân thực hiện có hiệu quả việc ứng dụng khoa học và công nghệ vào phát triển sản xuất (nhất là trong lĩnh vực nông nghiệp), để nâng cao năng suất và chất lượng sản phẩm đầu ra nông sản, góp phần nâng cao đời sống và thu nhập cho người nông dân[2].

Sau khi nghiên cứu, Bộ KH&CN có ý kiến trả lời như sau:

Ngay sau khi Nghị quyết số 57-NQ/TW ngày 22/12/2024 của Bộ Chính trị về đột phá phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số (KHCN,ĐMST&CĐS) quốc gia được ban hành, Bộ KH&CN đã phối hợp cùng các Bộ, ngành xây dựng, tham mưu Chính phủ ban hành Chương trình hành động thực hiện Nghị quyết số 57-NQ/TW ngày 22/12/2024 của Bộ Chính trị[3]; tham mưu Chính phủ trình Quốc hội ban hành Nghị quyết số 193/2025/QH15 của Quốc hội về thí điểm một số cơ chế, chính sách đặc biệt tạo đột phá phát triển KHCN,ĐMST&CĐS quốc gia.

Tại kỳ họp thứ 9, Quốc hội khóa XV (ngày 27/6/2025), Quốc hội đã thông qua Luật Khoa học, Công nghệ và Đổi mới sáng tạo với nhiều chính sách mới (có hiệu lực ngay từ ngày 01/10/2025), trong đó một trong những định hướng chiến lược là việc ứng dụng kết quả nghiên cứu vào thực tiễn. Luật cũng quy định việc "Nhà nước khuyến khích viện nghiên cứu, cơ sở giáo dục đại học, tổ chức KH&CN khác phối hợp với doanh nghiệp trong việc đề xuất, triển khai, ứng dụng kết quả nghiên cứu ứng dụng vào thực tiễn"; đồng thời chỉ rõ một trong những nội dung chi ngân sách nhà nước cho KHCN&ĐMST là "chi cho hoạt động hỗ trợ nghiên cứu khoa học, phát triển công nghệ, ứng dụng công nghệ, chuyển giao công nghệ, đổi mới sáng tạo, khởi nghiệp sáng tạo". Luật cũng quy định việc sử dụng quỹ đổi mới công nghệ quốc gia và quỹ phát triển KHCN&ĐMST của Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, cơ quan khác ở trung ương, Ủy ban nhân dân cấp tỉnh để chi hỗ trợ ứng dụng công nghệ.

Hiện nay, Bộ KH&CN đang xây dựng các dự án Luật, dự kiến trình Quốc hội xem xét, thông qua tại Kỳ họp thứ 10, Quốc hội khóa XV, gồm: Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Sở hữu trí tuệ, Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật chuyển giao công nghệ và các văn bản hướng dẫn dưới Luật. Đây là hành lang pháp lý quan trọng góp phần thúc đẩy việc thương mại hóa, chuyển giao quyền sở hữu, ứng dụng các kết quả nghiên cứu vào sản xuất, đồng thời tăng cường bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ đối với các chủ thể đã được xác lập quyền.

Cùng với việc xây dựng Luật Khoa học, Công nghệ và Đổi mới sáng tạo và các Luật chuyên ngành, thực hiện các nhiệm vụ được giao, Bộ KH&CN đang nghiên cứu, xây dựng trình cấp có thẩm quyền ban hành các nghị định, văn bản hướng dẫn về đầu tư và tài chính cho hoạt động KHCN&ĐMST làm cơ sở pháp lý cho hoạt động hỗ trợ người dân thực hiện có hiệu quả việc ứng dụng KH&CN vào phát triển sản xuất, kinh doanh.

Bên cạnh đó, Bộ KH&CN đã triển khai các hoạt động cụ thể để hỗ trợ việc ứng dụng và thương mại hóa kết quả nghiên cứu, như: ra mắt sàn giao dịch khoa học và công nghệ với mục tiêu kết nối bên cung và bên cầu; tăng cường việc phát triển các nền tảng, cơ sở dữ liệu để hỗ trợ kết nối trực tiếp giữa các đơn vị nghiên cứu với các doanh nghiệp nông nghiệp lớn, các hợp tác xã và nông dân, tạo điều kiện thuận lợi cho việc ứng dụng KH&CN vào phát triển sản xuất, nhất là trong lĩnh vực nông nghiệp.

Nội dung kiến nghị số 3:

Đề nghị xem xét đề xuất các cơ chế, chính sách hỗ trợ đặc thù và cụ thể để giúp các đại học vùng (trong đó có Đại học Cần Thơ) phát huy hiệu quả vai trò đào tạo nguồn nhân lực phục vụ phát triển xanh và nâng cao năng lực cạnh tranh của vùng (trong đó có vùng Đồng bằng sông Cửu Long) về khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia[4].

Sau khi nghiên cứu, Bộ KH&CN có ý kiến trả lời như sau:

Bộ KH&CN ghi nhận vai trò đặc biệt của các trường đại học vùng, trong đó có Đại học Cần Thơ trong đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao phục vụ phát triển bền vững, tăng trưởng xanh, nâng cao năng lực cạnh tranh và thúc đẩy khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo (KHCN&ĐSMT), đặc biệt đối với vùng Đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL) - khu vực chịu tác động mạnh của biến đổi khí hậu và yêu cầu cấp thiết về chuyển đổi số, kinh tế xanh, kinh tế tuần hoàn.

Hiện nay, Bộ KH&CN đã và đang: (1) Triển khai các Chương trình KH&CN quốc gia, các nhiệm vụ đặt hàng theo nhu cầu vùng, miền trong đó ưu tiên các nhiệm vụ ứng dụng và chuyển giao công nghệ phục vụ phát triển nông nghiệp bền vững, kinh tế số, kinh tế xanh tại ĐBSCL; (2) Phối hợp với Bộ Giáo dục và Đào tạo, Bộ Tài chính trong việc xây dựng và triển khai các cơ chế đặt hàng, giao nhiệm vụ KH&CN cho các trường đại học vùng, hỗ trợ đầu tư phòng thí nghiệm triển khai thực hiện Nghị quyết số 57/NQ-TW ngày 22/12/2024 của Bộ Chính trị về đột phá phát triển KHCN,ĐMST&CĐS quốc gia; (3) Hỗ trợ kết nối các trường đại học vùng với doanh nghiệp, viện nghiên cứu, đối tác quốc tế nhằm thúc đẩy thương mại hóa kết quả nghiên cứu, khởi nghiệp đổi mới sáng tạo.

Trong thời gian tới, Bộ KH&CN sẽ:

- Nghiên cứu xem xét tăng cường kinh phí sự nghiệp KHCN&ĐMST cho các trường đại học vùng, trong đó ưu tiên đào tạo và nghiên cứu phục vụ phát triển xanh, chuyển đổi số và nâng cao năng lực cạnh tranh của vùng ĐBSCL.

- Phối hợp với các bộ, ngành và địa phương xây dựng các dự án, chương trình KH&CN trọng điểm gắn với chiến lược phát triển vùng và nhu cầu cụ thể của doanh nghiệp, cộng đồng thực hiện chủ trương của Luật KHCN&ĐMST mới được ban hành.

- Tăng cường hỗ trợ các trường đại học vùng triển khai các nhiệm vụ tại Quỹ phát triển KH&CN quốc gia, Quỹ phát triển KHCN&ĐMST của bộ, ngành, địa phương, Quỹ phát triển KH&CN của doanh nghiệp, và các nguồn tài trợ quốc tế.

- Ưu tiên đặt hàng, giao nhiệm vụ KH&CN cấp quốc gia gắn với nhu cầu phát triển bền vững của ĐBSCL, trong đó khuyến khích các trường đại học vùng tham gia chủ trì.

- Hỗ trợ đầu tư nâng cấp tiềm lực KH&CN thông qua các đề án, dự án xây dựng phòng thí nghiệm trọng điểm, trung tâm đổi mới sáng tạo và ươm tạo công nghệ, phù hợp với quy định hiện hành.

- Tăng cường kết nối các trường đại học vùng với doanh nghiệp, địa phương và đối tác quốc tế để huy động nguồn lực xã hội, quỹ đổi mới sáng tạo quốc gia và các nguồn viện trợ, tài trợ hợp pháp khác.

Bộ KH&CN sẽ tiếp tục phối hợp với Bộ Giáo dục và Đào tạo, các bộ, ngành và địa phương để đề xuất cơ chế, chính sách tạo điều kiện thuận lợi cho các trường đại học vùng, đặc biệt là Đại học Cần Thơ phát huy tối đa vai trò trong đào tạo nhân lực, nghiên cứu KHCN, ĐMST&CĐS, góp phần thúc đẩy phát triển xanh và nâng cao năng lực cạnh tranh của vùng Đồng bằng sông Cửu Long.

Nội dung kiến nghị số 4:

Đề nghị xem xét đề xuất hoặc sớm ban hành theo thẩm quyền các quy định cụ thể và khả thi để tháo gỡ các vướng mắc từ việc thực hiện cơ chế tài chính, điều kiện được sử dụng quỹ khoa học công nghệ, việc quản lý tài sản và thương mại hóa kết quả nghiên cứu,…để các nhà khoa học, tổ chức nghiên cứu trong lĩnh vực khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo tiếp tục đầu tư, nghiên cứu, sản xuất và hoạt động hiệu quả lĩnh vực này, góp phần tạo thêm động lực thúc đẩy kinh tế đất nước phát triển trong thời gian tới[5].

Sau khi nghiên cứu, Bộ KH&CN có ý kiến trả lời như sau:

Đối với điều kiện phải bảo toàn vốn đối với Quỹ phát triển KH&CN của bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương gây vướng mắc về hoạt động, sử dụng Quỹ, Bộ KH&CN đã tham mưu Chính phủ ban hành Nghị định số 88/2025/NĐ-CP ngày 13/4/2025 quy định chi tiết và hướng dẫn một số điều của Nghị quyết 193/2025/QH15 ngày 19/02/2025 của Quốc hội về thí điểm một số cơ chế, chính sách đặc biệt tạo đột phá phát triển KHCN,ĐMST&CĐS quốc gia. Theo đó, Nghị định số 88/2025/NĐ-CP đã bãi bỏ Điều 5 Quyết định số 37/2015/QĐ-TTg ngày 08/9/2015 của Thủ tướng Chính phủ quy định điều kiện thành lập Quỹ phát triển KH&CN của bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương.

Bên cạnh đó, Luật KHCN&ĐMST đã có nhiều nội dung mới, có tính đột phá để tháo gỡ các vướng mắc về quỹ, cơ chế tài chính, xử lý kết quả của nhiệm vụ KH&CN để các nhà khoa học, tổ chức nghiên cứu trong lĩnh vực KHCN&ĐMST tiếp tục đầu tư, nghiên cứu, sản xuất góp phần tạo thêm động lực thúc đẩy kinh tế đất nước phát triển trong thời gian tới.

Cụ thể:

(i) Luật KHCN&ĐMST xây dựng và phát triển nguồn lực tài chính bền vững cho KHCN&ĐMST trên quy định rõ sự ưu tiên bố trí ngân sách nhà nước cho KHCN&ĐMST và thúc đẩy các nguồn lực xã hội hóa cho KHCN&ĐMST.

- Bảo đảm vai trò dẫn dắt của nhà nước: Nhà nước bảo đảm tối thiểu 2% cho KHCN&ĐMST trong tổng chi ngân sách nhà nước hàng năm và tăng dần theo nhu cầu phát triển.

- Thúc đẩy các nguồn lực xã hội hóa cho KHCN&ĐMST: Nhà nước tạo điều kiện để mọi thành phần tham gia, khuyến khích xã hội hóa nguồn lực tài chính của doanh nghiệp, tổ chức, cá nhân tham gia vào hoạt động KHCN&ĐMST thông qua các cơ chế:

+ Về ưu đãi thuế: Quy định đề cập các chính sách ưu đãi về thuế (Điều 34, 37, 43); khuyến khích trích lập và sử dụng Quỹ phát triển KH&CN của Doanh nghiệp, tổ chức (Điều 66).

+ Về thúc đẩy thương mại hóa kết quả: Thông qua chính sách giao tự động quyền sở hữu, quyền sử dụng kết quả nghiên cứu sử dụng ngân sách nhà nước cho tổ chức chủ trì, không phải bồi hoàn chi phí cho nhà nước, không ghi tăng vốn nhà nước tại doanh nghiệp. Tổ chức chủ trì chủ động thực hiện tổ chức thương mại hóa kết quả nghiên cứu (Điều 25, 26).

+ Về chia sẻ lợi ích: Đã có quy định rõ về cơ chế chia sẻ lợi ích rõ ràng giữa các bên đóng góp tài chính, cơ sở vật chất; cơ chế thưởng cho tác giả, thưởng cho cá nhân tham gia thực hiện thương mại hóa và lợi ích cho tổ chức chủ trì để tái đầu tư nghiên cứu, hoặc phục vụ mục tiêu khác theo quy định (Điều 28).

+ Về chấp nhận rủi ro: Chính sách đột phá trong việc Nhà nước chấp nhận rủi ro phần kinh phí nhà nước tài trợ thực hiện các nhiệm vụ KH,CN&ĐMST sử dụng ngân sách nhà nước đối với các nhiệm vụ KH,CN&ĐMST đã bảo đảm thực hiện đầy đủ các quy định quản lý nhiệm vụ, quy trình thực hiện, nội dung nghiên cứu, biện pháp phòng ngừa rủi ro nhưng kết quả của nhiệm vụ không đạt được mục tiêu đề ra. Nhà nước chấp nhận rủi ro trong việc đầu tư mạo hiểm tại các dự án khởi nghiệp sáng tạo thông qua quỹ đầu tư mạo hiểm của quốc gia và địa phương.

(ii) Cơ chế tài chính linh hoạt, từ cách tiếp cận "quản lý chi tiêu" sang "quản trị theo kết quả":

- Nguyên tắc phân bổ, quản lý ngân sách nhà nước: Theo hướng gắn với kết quả đầu ra, hiệu quả thực hiện nhiệm vụ, tăng cường trách nhiệm giải trình và quyền tự chủ của đơn vị sử dụng ngân sách (Điều 61, Điều 62, Điều 63).

- Về cơ chế khoán chi: Quy định rõ cơ chế khoán chi đến sản phẩm cuối cùng hoặc từng phần theo nội dung nghiên cứu, giao quyền tự chủ và gắn trách nhiệm cụ thể cho tổ chức chủ trì trong việc quản lý, sử dụng kinh phí, giảm thủ tục hành chính, rút ngắn thời gian triển khai nhiệm vụ KH,CN&ĐMST. Đồng thời, cơ chế khoán linh hoạt cho phép tổ chức chủ trì được tự quyết định việc thuê chuyên gia, mức kinh phí theo thỏa thuận để thu hút nhân lực chất lượng cao.

(iii) Cơ chế Quỹ và Quỹ: Luật đã thiết kế hệ thống Quỹ đồng bộ ở cả cấp quốc gia, địa phương. Nguồn lực tài chính của Quỹ được bố trí sẵn sàng để đáp ứng yêu cầu cấp kinh phí triển khai thực hiện các nhiệm vụ KH,CN&ĐMST, chấm dứt độ trễ ngân sách thông qua cơ chế Quỹ.

Hiện nay, Bộ KH&CN đã trình Chính phủ dự thảo Nghị định quy định chi tiết và hướng dẫn một số điều của Luật KHCN&ĐMST về tài chính và đầu tư trong KHCN&ĐMST; dự kiến hoàn thiện, ban hành trong Quý IV/2025.

Nội dung kiến nghị số 5:

Đề nghị chỉ đạo xem xét thực hiện phân bổ trực tiếp nguồn kinh phí hằng năm từ quỹ khoa học và công nghệ cho các cơ sở đào tạo, nghiên cứu thực hiện nhiệm vụ khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo theo năng lực cụ thể của từng đơn vị, nhằm đảm bảo việc khai thác và sử dụng quỹ này được kịp thời và hiệu quả đáp ứng yêu cầu phát triển theo tinh thần Nghị quyết số 57-NQ/TW của Bộ Chính trị ngày 22/12/2024 của Bộ Chính trị về đột phá phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia.

Sau khi nghiên cứu, Bộ Khoa học và Công nghệ (KH&CN) có ý kiến trả lời như sau:

Nhằm thể chế hóa đầy đủ tinh thần Nghị quyết số 57-NQ/TW ngày 22/12/2024 của Bộ Chính trị, Bộ KH&CN đã tham mưu Chính phủ trình Quốc hội thông qua Luật KHCN&ĐMST tại Kỳ họp thứ 9, Quốc hội khóa XV, trong đó đã thiết kế hệ thống Quỹ đồng bộ ở cả cấp quốc gia, địa phương. Nguồn lực tài chính của Quỹ được bố trí sẵn sàng để đáp ứng yêu cầu cấp kinh phí triển khai thực hiện các nhiệm vụ KHCN&ĐMST từ Quỹ cho các tổ chức chủ trì thực hiện nhiệm vụ KHCN&ĐMST (không phân biệt thành phần kinh tế), chấm dứt độ trễ ngân sách thông qua cơ chế Quỹ.

Nội dung kiến nghị số 6:

Đề nghị chỉ đạo xem xét chính sách hỗ trợ đầu tư Trung tâm đổi mới sáng tạo vùng Đồng bằng sông Cửu Long kết nối với các trường Đại học vùng và hệ sinh thái đổi mới sáng tạo quốc gia và quốc tế để tạo thuận lợi cho việc thu hút các nhà khoa học, các chủ đầu tư các dự án FDI có tính công nghệ cao như điện tử, cơ khí, ô tô, phần mềm, dữ liệu lớn, hạ tầng AI, IoT, công nghệ chế biến, giao thông, logistic,…, qua đó, góp phần đào tạo nguồn nhân lực tại chỗ, tạo việc làm ổn định lâu dài cho lực lượng lao động vùng Đồng bằng sông Cửu Long, nơi đứng đầu cả nước về sản xuất và tiệu thụ nông sản, là cơ sở đảm bảo vững chắc được nguồn nguyên liệu dồi dào phục vụ cho phát triển nông nghiệp ứng dụng sâu khoa học và công nghệ, cũng như góp phần từng bước phát triển được các ngành công nghiệp mới nổi, công nghệ chiến lược của vùng Đồng bằng sông Cửu Long nói riêng và cả nước nói chung trong thời gian tới.

Sau khi nghiên cứu, Bộ Khoa học và Công nghệ (KH&CN) có ý kiến trả lời như sau:

Về định hướng đầu tư phát triển Trung tâm đổi mới sáng tạo vùng Đồng bằng sông Cửu Long

Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 10 năm 2021 - 2030 đề ra chủ trương: "Xây dựng trung tâm đổi mới sáng tạo, trung tâm trí tuệ nhân tạo tại các vùng trọng điểm". Nghị quyết số 59-NQ/TW ngày 05/8/2020 của Bộ Chính trị về xây dựng và phát triển thành phố Cần Thơ đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045 đề ra chủ trương: "Cụ thể hoá vai trò trung tâm vùng của thành phố trong định hướng, quy hoạch, chiến lược và chính sách phát triển thành phố, phát triển vùng và phát triển của từng địa phương trong vùng, cũng như trong các chương trình hành động với đầy đủ các nguồn lực và cơ chế phát triển phù hợp với vai trò trung tâm vùng của thành phố". Theo đó, các định hướng về phát triển Trung tâm đổi mới sáng tạo vùng Đồng bằng sông Cửu Long đặt tại thành phố Cần Thơ cần đảm bảo phát huy những lợi thế sẵn có, cụ thể hoá vai trò trung tâm vùng của thành phố Cần Thơ.

Về chính sách ưu đãi đối với các Trung tâm đổi mới sáng tạo; kết nối trung tâm đổi mới sáng tạo vùng với hệ sinh thái đổi mới sáng tạo quốc gia

Tại Kỳ họp thứ 9, Quốc hội khóa XV đã thông qua Luật KHCN&ĐMST với nhiều chính sách mới có hiệu lực ngay từ ngày 01/10/2025, trong đó có quy định ưu đãi đối với trung tâm đổi mới sáng tạo (Điều 47) như: "Ưu tiên thuê đất, cơ sở hạ tầng tại khu công nghiệp, khu chế xuất, khu kinh tế, khu công nghệ cao, khu nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao, khu công nghệ số tập trung; ưu tiên sử dụng trang thiết bị nghiên cứu, phát triển tại phòng thí nghiệm dùng chung, cơ sở ươm tạo, trung tâm đổi mới sáng tạo; được hỗ trợ thông tin, truyền thông, xúc tiến thương mại; được hưởng ưu đãi, hỗ trợ theo quy định của pháp luật; có trách nhiệm cung cấp thông tin về tình hình hoạt động và kết quả thụ hưởng chính sách ưu đãi, hỗ trợ phục vụ quản lý nhà nước". Hiện nay, Bộ KH&CN đang xây dựng Nghị định quy định chi tiết và hướng dẫn một số điều của Luật KHCN&ĐMST về đổi mới sáng tạo; khuyến khích hoạt động KHCN&ĐMST trong doanh nghiệp; công nhận trung tâm đổi mới sáng tạo, hỗ trợ khởi nghiệp sáng tạo; công nhận cá nhân, doanh nghiệp khởi nghiệp sáng tạo, chuyên gia hỗ trợ khởi nghiệp sáng tạo; hạ tầng, mạng lưới và hệ sinh thái khởi nghiệp sáng tạo. Dự kiến trình Chính phủ ban hành trong Quý IV/2025.

Bên cạnh các ưu đãi được quy định trong Luật KHCN&ĐMST, dự án đầu tư Trung tâm đổi mới sáng tạo là đối tượng được hưởng ưu đãi đầu tư theo quy định tại điểm e khoản 2 Điều 15 Luật Đầu tư 2020; khoản 6 Điều 19 Nghị định số 31/2021/NĐ-CP ngày 26/3/2021 của Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Đầu tư. Ngoài ra, các dự án đầu tư thành lập mới (bao gồm cả việc mở rộng dự án thành lập mới đó) các trung tâm đổi mới sáng tạo có tổng vốn đầu tư từ 3.000 tỷ đồng trở lên, thực hiện giải ngân tối thiểu 1.000 tỷ đồng trong thời hạn 03 năm có thể được hưởng các ưu đãi, hỗ trợ đầu tư đặc biệt khác theo điểm a khoản 2 Điều 20 Luật Đầu tư 2020 (được sửa đổi, bổ sung tại điểm a khoản 3 Điều 6 Luật số 90/2025/QH15 ngày 25/6/2025) và Quyết định số 29/2021/QĐ-TTg ngày 06/10/2021 của Thủ tướng Chính phủ quy định về ưu đãi đầu tư đặc biệt.

Ngoài ra, để kết nối trung tâm đổi mới sáng tạo vùng với hệ sinh thái đổi mới sáng tạo quốc gia, theo quy định tại điểm b khoản 4 Điều 13 Nghị định số 97/2025/NĐ-CP ngày 05/5/2025 của Chính phủ về cơ chế, chính sách ưu đãi đối với Trung tâm Đổi mới sáng tạo Quốc gia quy định các bộ, ngành, địa phương có trách nhiệm kết nối hoạt động của các trung tâm khởi nghiệp, đổi mới sáng tạo của địa phương với hoạt động của Trung tâm Đổi mới sáng tạo Quốc gia. Đồng thời, Bộ Nông nghiệp và Môi trường cũng đang chủ trì, phối hợp với các tỉnh vùng đồng bằng sông Cửu Long triển khai xây dựng một số Đề án thành lập các trung tâm thuộc lĩnh vực nông nghiệp và môi trường[6]; gắn hệ sinh thái đổi mới sáng tạo vùng, quốc gia và quốc tế để tạo thuận lợi cho việc thu hút các nhà khoa học, các chủ đầu tư các dự án FDI có tính công nghệ cao như điện tử, phần mềm, dữ liệu lớn, hạ tầng AI, IoT, công nghệ chế biến, giao thông, logistic,… góp phần đào tạo nguồn nhân lực tại chỗ, tạo việc làm ổn định lâu dài cho lực lượng lao động vùng Đồng bằng sông Cửu Long. Hiện nay, theo quy định của pháp luật hiện hành về phân cấp, phân quyền, tổ chức chính quyền địa phương 02 cấp, sắp xếp lại đơn vị hành chính cấp tỉnh; kế hoạch thực hiện Quy hoạch của các tỉnh giai đoạn 2021-2025, tầm nhìn đến năm 2050 thì việc xây dựng các Trung tâm đầu mối về nông nghiệp thuộc thẩm quyền, trách nhiệm của chính quyền địa phương các tỉnh. Trong thời gian tới, Chính phủ sẽ chỉ đạo các bộ, ngành, cơ quan có liên quan phối hợp chặt chẽ với Ủy ban nhân dân thành phố Cần Thơ trong quá trình triển khai thực hiện.

Bên cạnh đó, để phát huy tối đa vai trò của Trung tâm đổi mới sáng tạo vùng Đồng bằng Sông Cửu Long, các trường Đại học vùng trong việc hiện thực hóa các mục tiêu của Nghị quyết số 57-NQ/TW, Bộ KH&CN sẽ phối hợp với các Bộ, ban, ngành và Ủy ban nhân dân thành phố Cần Thơ tham mưu cấp có thẩm quyền xây dựng và triển khai một số giải pháp cụ thể như sau:

- Triển khai định hướng phát triển vùng Đồng bằng Sông Cửu Long theo Nghị quyết của Bộ Chính trị và Quy hoạch phát triển vùng của Thủ tướng Chính phủ trong đó gắn việc thực hiện các mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội với việc tăng cường thực hiện các hoạt động KHCN,ĐMST&CĐS để phát triển các ngành, lĩnh vực ưu tiên, công nghệ trọng điểm và mục tiêu cụ thể phù hợp với đặc điểm tự nhiên, kinh tế, xã hội của vùng.

- Xây dựng và hoàn thiện cơ chế tài chính trong đó tăng cường tính tự chủ các đơn vị sự nghiệp công lập, đồng thời hỗ cho cho các đơn vị sự nghiệp công lập nói chung cũng như Trung tâm đổi mới sáng tạo vùng Đồng bằng sông Cửu Long và các trường Đại học vùng được ưu tiên tiếp cận các nguồn vốn từ ngân sách nhà nước, Quỹ phát triển KH&CN quốc gia, Quỹ đổi mới công nghệ quốc gia, Quỹ phát triển KHCN&ĐMST của Bộ, ngành, địa phương cũng như khuyến khích huy động các nguồn lực từ doanh nghiệp, tổ chức quốc tế cho các dự án nghiên cứu và chuyển giao công nghệ, phát triển nông nghiệp công nghệ cao, thủy sản bền vững, năng lượng tái tạo, xử lý môi trường, và ứng dụng công nghệ số trong quản lý tài nguyên tại vùng Đồng bằng Sông Cửu Long.

- Ban hành các chính sách ưu đãi vượt trội về lương, phụ cấp, điều kiện làm việc, cơ hội phát triển nghề nghiệp để thu hút và giữ chân các nhà khoa học, chuyên gia hàng đầu về kinh tế xanh, công nghệ cao, và biến đổi khí hậu về công tác tại Trung tâm đổi mới sáng tạo vùng Đồng bằng Sông Cửu Long, các trường Đại học vùng và các viện nghiên cứu trong vùng. Đồng thời tăng cường đầu tư nâng cấp cơ sở vật chất, trang thiết bị hiện đại cho các trường đại học, viện nghiên cứu, đặc biệt là các đại học vùng với các phòng thí nghiệm trọng điểm, trung tâm đổi mới sáng tạo để phục vụ đào tạo các ngành khoa học công nghệ mũi nhọn. Ngoài ra, tăng cường rà soát, cập nhật và xây dựng các chương trình đào tạo mới theo hướng liên ngành, ứng dụng, đáp ứng trực tiếp nhu cầu nhân lực chất lượng cao cho kinh tế xanh, tuần hoàn và công nghệ cao của vùng. Khuyến khích và tạo điều kiện cho trường đại học, viện nghiên cứu lớn như các đại học vùng tăng cường hợp tác quốc tế với các trường đại học, viện nghiên cứu hàng đầu thế giới để trao đổi kinh nghiệm, chuyển giao công nghệ, và nâng cao chất lượng đào tạo và nghiên cứu.

Trên đây là nội dung trả lời của Bộ Khoa học và Công nghệ đối với kiến nghị của cử tri thành phố Cần Thơ, trân trọng gửi tới Đoàn đại biểu Quốc hội thành phố Cần Thơ để trả lời cử tri./.


[1] Kiến nghị số thứ tự 08

[2] Kiến nghị số thứ tự 06

[3] Nghị quyết số 03/NQ-CP ngày 09/01/2025 và sửa đổi, bổ sung cập nhật tại Nghị quyết số 71/NQ-CP ngày 01/4/2025.

[4] Kiến nghị thứ tự số 09

[5] Kiến nghị thứ tự số 07

[6] Như: (1) Đề án thành lập Trung tâm liên kết, sản xuất, chế biến và tiêu thụ sản phẩm nông sản vùng Đồng bằng sông Cửu Long tại Cần Thơ; (2) Đề án Trung tâm đầu mối ở An Giang, Đồng Tháp gắn với vùng nguyên liệu về thủy sản nước ngọt, trái cây, lúa gạo vùng sinh thái nước ngọt; (3) Trung tâm đầu mối ở Kiên Giang, Cà Mau, Sóc Trăng gắn với vùng nguyên liệu thủy sản khu vực ven biển; (4) Đề án Trung tâm đầu mối ở Tiền Giang, Bến Tre gắn với vùng nguyên liệu chính trái cây, rau màu