Đổi mới sáng tạo - động lực then chốt nâng cao năng suất lao động Việt Nam

<p style="text-align: justify;">Triển khai đồng bộ chính sách, sáng kiến doanh nghiệp (DN) và đổi mới công nghệ sẽ giúp Việt Nam vượt bẫy thu nhập trung bình, nâng cao năng suất, cải thiện hiệu quả kinh tế và tạo nền tảng cho tăng trưởng hai con số, đồng thời khẳng định vị thế của Việt Nam là điểm đến hấp dẫn về đổi mới sáng tạo (ĐMST) trong khu vực và quốc tế.</p>

Đổi mới sáng tạo - con đường tất yếu để tăng năng suất

Trong hơn một thập kỷ qua, tăng trưởng kinh tế của Việt Nam vẫn chủ yếu dựa trên khai thác lao động giá rẻ, tài nguyên và vốn đầu tư. Tuy nhiên, xu hướng này đang bộc lộ giới hạn. Theo số liệu của CIEM, tốc độ tăng năng suất lao động giai đoạn 2011-2024 có xu hướng giảm dần, dù vẫn duy trì ở mức dương. So với các quốc gia trong khu vực, NSLĐ của Việt Nam vẫn ở nhóm thấp chỉ bằng khoảng 7% của Singapore, 19% của Malaysia và 36% của Thái Lan.

Trong khi đó, ĐMST được chứng minh là yếu tố cốt lõi giúp nâng cao năng suất. Các nước có đầu tư mạnh cho nghiên cứu và phát triển (R&D), ứng dụng công nghệ mới và khuyến khích sáng tạo trong doanh nghiệp đều có tốc độ tăng năng suất cao hơn rõ rệt. "ĐMST chính là quá trình chuyển đổi nền kinh tế từ dựa vào thâm dụng lao động sang dựa vào tri thức và hiệu quả," ông Đặng Đức Anh nhấn mạnh.

Mặc dù Việt Nam liên tục nằm trong Top 50 quốc gia dẫn đầu Chỉ số ĐMST toàn cầu (GII), song thực tế cho thấy năng lực sáng tạo nội sinh còn hạn chế. Tỷ lệ đầu tư cho R&D mới đạt chưa đến 1% GDP, trong khi mục tiêu đề ra là 2%. Điều này phần nào lý giải vì sao hoạt động nghiên cứu, phát triển công nghệ trong nước chưa hình thành được những trung tâm đủ mạnh để dẫn dắt doanh nghiệp.

Đổi mới sáng tạo - động lực then chốt nâng cao năng suất lao động Việt Nam- Ảnh 1.

Đổi mới sáng tạo đem lại hiệu suất cao cho doanh nghiệp.

Một rào cản khác là trình độ công nghệ của doanh nghiệp còn thấp. Theo khảo sát, hơn 30% doanh nghiệp Việt Nam vẫn vận hành dây chuyền hoàn toàn thủ công, hơn 50% sử dụng thiết bị bán tự động, chỉ 10% có ứng dụng tự động hóa và chưa đến 10% sử dụng robot trong sản xuất. "Nếu không đổi mới công nghệ, chúng ta sẽ mãi chỉ gia công và phụ thuộc vào công nghệ nhập khẩu," ông Đặng Đức Anh nhấn mạnh.

Liên kết chuyển giao công nghệ giữa doanh nghiệp trong nước với khu vực đầu tư nước ngoài (FDI) cũng chưa phát huy hiệu quả. Trong 27.500 dự án FDI, chỉ khoảng 1.000 dự án có hợp đồng chuyển giao công nghệ, trong đó công nghệ nguồn từ các nước phát triển chỉ chiếm khoảng 5%, còn lại chủ yếu là công nghệ trung bình. Tỷ lệ nội địa hóa trong các ngành công nghiệp nền tảng vẫn ở mức thấp, khiến giá trị gia tăng tạo ra trong nước còn hạn chế.

Cần tư duy chiến lược và chính sách đột phá

Theo ông Đặng Đức Anh: Một trong những điểm nghẽn lớn nhất hiện nay là chất lượng nguồn nhân lực công nghệ cao. Dù tỷ lệ lao động qua đào tạo tăng, nhưng kỹ năng thực tế của lực lượng lao động vẫn chưa đáp ứng được yêu cầu của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư. Việt Nam đang thiếu nghiêm trọng nhân lực trong các lĩnh vực như trí tuệ nhân tạo (AI), dữ liệu lớn (Big Data), công nghệ bán dẫn và tự động hóa. "Khoảng cách giữa đào tạo và nhu cầu thực tế của thị trường vẫn còn rất xa".

Bên cạnh đó, khung pháp lý và thể chế cho ĐMST còn thiếu đồng bộ. Các quy định về sở hữu trí tuệ, thử nghiệm công nghệ mới (sandbox), hay tiêu chuẩn hóa công nghệ số vẫn đang chậm ban hành. Thủ tục hành chính ở một số lĩnh vực đặc biệt là cấp phép đầu tư và tiếp cận đất đai còn phức tạp, làm giảm tính linh hoạt của doanh nghiệp. Hệ thống đo lường, lượng hóa các chỉ tiêu liên quan đến KH&CN, ĐMST và chuyển đổi số cũng chưa đầy đủ, gây khó khăn trong việc đánh giá hiệu quả chính sách.

Để khơi thông dòng chảy đổi mới sáng tạo, cần hình thành tư duy chiến lược trong phát triển công nghiệp nền tảng những ngành có khả năng nâng cấp và lan tỏa công nghệ như điện tử, chế tạo, vật liệu mới, năng lượng sạch. Việt Nam cần tập trung nguồn lực phát triển một số ngành chiến lược thay vì dàn trải, từ đó tạo "cực tăng trưởng" mới dựa vào khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo.

Bên cạnh đó, cần tăng cường năng lực tự chủ về công nghệ cho doanh nghiệp trong nước. Nhà nước nên có chính sách ưu đãi thuế, hỗ trợ tài chính cho hoạt động R&D và ĐMST, đồng thời phát triển các quỹ đầu tư mạo hiểm để chia sẻ rủi ro cho doanh nghiệp công nghệ cao. Không thể chờ doanh nghiệp tự lớn lên trong điều kiện cạnh tranh khốc liệt toàn cầu mà thiếu sự đồng hành của chính sách.

Việc xây dựng hệ sinh thái đổi mới sáng tạo đủ mạnh cũng là yêu cầu cấp bách. Việt Nam cần phát triển các trung tâm đổi mới sáng tạo vùng, vườn ươm công nghệ, mạng lưới kết nối quốc tế nhằm thu hút chuyên gia, chuyển giao công nghệ và lan tỏa tri thức. Song song với đó là phát triển doanh nghiệp lớn trong các ngành công nghiệp nền tảng, gắn phát triển công nghiệp với hạ tầng trọng điểm quốc gia, đặc biệt là hạ tầng số và nền tảng dữ liệu.

Đổi mới sáng tạo chỉ có thể thành công khi gắn với nâng cao chất lượng nguồn nhân lực. Theo ông Đặng Đức Anh, cần thúc đẩy cải cách giáo dục nghề nghiệp, đào tạo liên tục, bồi dưỡng lại kỹ năng (reskilling) để người lao động thích ứng nhanh với công nghệ mới. Đồng thời, đẩy mạnh kết nối "doanh nghiệp – trường đại học – viện nghiên cứu" để đào tạo sát với nhu cầu thực tế, hình thành lực lượng lao động chất lượng cao phục vụ phát triển công nghiệp công nghệ cao.

Đối với khu vực doanh nghiệp nhỏ và vừa (DNVVN), ông đề nghị đẩy mạnh hỗ trợ chuyển đổi số và đổi mới công nghệ, giúp họ tiếp cận dễ dàng hơn với các nền tảng số, giải pháp tự động hóa và đổi mới quy trình sản xuất.

Đổi mới sáng tạo - động lực then chốt nâng cao năng suất lao động Việt Nam- Ảnh 2.

Đổi mới sáng tạo cần trở thành hành động cụ thể của từng doanh nghiệp.

Cuối cùng, ông nhấn mạnh sự cần thiết của bộ chỉ tiêu về khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số công cụ giúp đo lường, lượng hóa và giám sát quá trình triển khai chính sách một cách thực chất, minh bạch.

Ông Đặng Tấn Đức, Viện trưởng Viện R&D, Tập đoàn Becamex chia sẻ: Mô hình công trình công - quản trị tư giúp Nhà nước đặt hàng, DN cung cấp dịch vụ, tối ưu hóa chất lượng, hiệu quả vận hành và tính thương mại của các nền tảng ĐMST. Đây là hướng đi thiết thực để nâng cao năng suất và thúc đẩy DN phát triển công nghệ nội sinh. Ông Đặng Tấn Đức chia sẻ ví dụ thực tiễn, Công ty CP Bóng đèn Phích nước Rạng Đông đã áp dụng giải pháp năng suất xanh, sử dụng nguyên vật liệu tái chế, thiết bị điện hiệu suất cao, tái sử dụng nước và xây dựng báo cáo kiểm kê khí nhà kính, giảm phát thải 922,5 tấn CO2/năm. Đây là minh chứng cho việc đổi mới sáng tạo vừa nâng cao năng suất, vừa hướng tới phát triển bền vững.

Theo các chuyên gia, năng suất lao động chính là thước đo phản ánh hiệu quả và sức cạnh tranh của nền kinh tế. Nếu không có đổi mới sáng tạo, Việt Nam sẽ khó vượt qua giới hạn tăng trưởng hiện nay. Bài học từ các nền kinh tế thành công như Hàn Quốc, Singapore hay Israel đều cho thấy: chỉ khi đặt ĐMST ở vị trí trung tâm của chính sách phát triển, mới có thể tạo ra bước nhảy vọt về năng suất và chất lượng tăng trưởng.

Đổi mới sáng tạo không chỉ là một khẩu hiệu, mà phải trở thành hành động cụ thể của từng doanh nghiệp, từng địa phương và từng người lao động. Và chính từ những hành động đó, năng suất lao động Việt Nam mới có thể tăng lên tạo nền tảng vững chắc để hiện thực hóa khát vọng thịnh vượng vào năm 2045.