Đưa tổ chức nghiên cứu và phát triển công lập thành trung tâm nghiên cứu xuất sắc khu vực, thế giới
<p style="text-align: justify;">Thủ tướng Chính phủ vừa ký Quyết định phê duyệt Chương trình nâng cao năng lực cho các tổ chức nghiên cứu và phát triển công lập giai đoạn 2025–2030 với hàng loạt mục tiêu và chỉ tiêu cụ thể. Theo đó, đến năm 2030 phát triển được một số tổ chức nghiên cứu và phát triển công lập thành các trung tâm nghiên cứu xuất sắc, ngang tầm khu vực và thế giới trong một số lĩnh vực.</p>
Ngày 27/12/2025, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 2813/QĐ-TTg phê duyệt Chương trình nâng cao năng lực cho các tổ chức nghiên cứu khoa học, tổ chức nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ công lập giai đoạn 2025–2030. Đây được xem là một trong những chương trình trọng tâm của Nhà nước trong việc củng cố nền tảng khoa học – công nghệ quốc gia, đáp ứng yêu cầu phát triển nhanh và bền vững trong bối cảnh cạnh tranh toàn cầu ngày càng gay gắt.
Theo Quyết định, chương trình được triển khai trên phạm vi toàn quốc, bám sát tinh thần Nghị quyết số 57-NQ/TW của Bộ Chính trị về phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia.
Điểm nhấn của chương trình là cách tiếp cận đầu tư có trọng tâm, trọng điểm, tránh dàn trải, gắn chặt việc nâng cao năng lực với hiệu quả hoạt động thực tế của từng tổ chức nghiên cứu và phát triển công lập. Thay vì phân bổ nguồn lực theo số lượng đơn vị, chương trình tập trung lựa chọn những tổ chức có năng lực nghiên cứu hàng đầu, có thế mạnh rõ rệt trong các lĩnh vực khoa học và công nghệ then chốt.
Các tiêu chí như kết quả nghiên cứu khoa học, khả năng tiếp nhận và sử dụng hiệu quả nguồn lực đầu tư, mức độ kết nối với doanh nghiệp và địa phương, năng lực hợp tác quốc tế, cũng như khả năng thương mại hóa, chuyển giao công nghệ và tư vấn chính sách được xem là căn cứ quan trọng để ưu tiên triển khai các nhiệm vụ nâng cao năng lực.

Chương trình tập trung đầu tư có trọng tâm, trọng điểm, tránh dàn trải, gắn chặt việc nâng cao năng lực với hiệu quả hoạt động thực tế của từng tổ chức nghiên cứu và phát triển công lập.
Mục tiêu tổng quát của chương trình là nâng cao năng lực nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ của hệ thống các tổ chức nghiên cứu công lập, xây dựng nền tảng khoa học – công nghệ vững chắc, đồng thời hình thành một số tổ chức nòng cốt có vai trò dẫn dắt trong các lĩnh vực quan trọng. Qua đó, khoa học và công nghệ được kỳ vọng sẽ đóng góp ngày càng rõ nét vào tăng trưởng kinh tế – xã hội, nâng cao năng suất, chất lượng và sức cạnh tranh của nền kinh tế, đồng thời phục vụ các mục tiêu bảo đảm quốc phòng, an ninh.
Đến năm 2030, chương trình đặt ra các mục tiêu và chỉ tiêu khá cụ thể:
Trong lĩnh vực khoa học cơ bản, phấn đấu phát triển 5 tổ chức nghiên cứu trong các lĩnh vực Toán học, Vật lý, Sinh học, Khoa học vật liệu và Khoa học trái đất nằm trong nhóm 30% các tổ chức được xếp hạng cao nhất theo đánh giá của các tổ chức quốc tế uy tín như Scimago Institutions Rankings (SIR) hoặc tương đương. Đây được coi là bước tiến quan trọng nhằm nâng cao vị thế khoa học cơ bản của Việt Nam trên bản đồ nghiên cứu khu vực và thế giới.
Trong lĩnh vực khoa học kỹ thuật và công nghệ, chương trình hướng tới phát triển từ 7 đến 10 tổ chức nghiên cứu công lập nằm trong nhóm 30% các tổ chức được xếp hạng cao nhất quốc tế. Các tổ chức này được xác định giữ vai trò dẫn dắt trong nghiên cứu, phát triển các công nghệ nền tảng và công nghệ chiến lược, phục vụ trực tiếp cho các ngành, lĩnh vực ưu tiên của nền kinh tế.
Với khoa học xã hội và nhân văn, chương trình đặt mục tiêu xây dựng 4 tổ chức nghiên cứu xuất sắc, trong đó có ít nhất 1 tổ chức đạt trình độ ngang tầm khu vực và thế giới, làm nòng cốt trong nghiên cứu và tư vấn chính sách.
Không chỉ dừng ở việc phát triển tổ chức, chương trình còn đưa ra hàng loạt chỉ tiêu cụ thể đối với hoạt động khoa học và công nghệ:
Từ năm thứ hai triển khai nhiệm vụ nâng cao năng lực, mỗi tổ chức tham gia chương trình hằng năm phải thu hút tối thiểu 70 lượt chuyên gia, nhà khoa học uy tín trong và ngoài nước tham gia hợp tác nghiên cứu, đào tạo, hội thảo và trao đổi học thuật. Đồng thời, các tổ chức phải duy trì ít nhất một diễn đàn khoa học hoặc hội thảo thường niên có uy tín ở tầm khu vực hoặc quốc tế.
Đến năm 2030, mỗi tổ chức tham gia chương trình phải xây dựng và duy trì được đội ngũ nghiên cứu với ít nhất 30 nghiên cứu viên, không bao gồm viên chức hưởng lương từ ngân sách nhà nước. Trong số này, tối thiểu 15% là người nước ngoài hoặc người Việt Nam ở nước ngoài, nhằm tăng cường yếu tố quốc tế hóa và trao đổi học thuật trong hoạt động nghiên cứu.
Các chỉ tiêu về công bố khoa học cũng được quy định rõ:
Đối với các tổ chức nghiên cứu cơ bản, số lượng bài báo khoa học công bố trên các tạp chí quốc tế uy tín thuộc danh mục Web of Science, Scopus, Scimago Q1 và Q2 phải tăng trung bình từ 15–20% mỗi năm. Đến năm 2030, hiệu suất công bố được yêu cầu đạt tối thiểu 1,5 bài báo quốc tế uy tín trên mỗi tiến sĩ mỗi năm.
Với các tổ chức nghiên cứu khoa học kỹ thuật và công nghệ, số lượng bài báo quốc tế tăng trung bình 12% mỗi năm, hướng tới hiệu suất tối thiểu 1,1 bài báo quốc tế uy tín trên mỗi tiến sĩ mỗi năm vào năm 2030.
Song song với công bố khoa học, chương trình đặc biệt nhấn mạnh đến sở hữu trí tuệ và chuyển giao công nghệ. Theo đó, số lượng văn bằng bảo hộ sáng chế, giải pháp hữu ích, giống cây trồng mới và thiết kế bố trí mạch tích hợp bán dẫn phải tăng trung bình 15% mỗi năm. Đến năm 2030, hiệu suất tạo ra văn bằng bảo hộ đạt bình quân tối thiểu 0,2 văn bằng trên mỗi tiến sĩ mỗi năm.
Hằng năm, 100% tổ chức tham gia chương trình phải làm chủ quy trình thiết kế, tích hợp để tạo ra sản phẩm hoàn chỉnh đối với các công nghệ nền tảng và công nghệ chiến lược thuộc lĩnh vực chuyên môn, đồng thời có ít nhất 2 kết quả hoặc sản phẩm khoa học và công nghệ được chuyển giao, ứng dụng vào thực tiễn.
Trong lĩnh vực khoa học xã hội và nhân văn, yêu cầu về đóng góp chính sách được đặt ra khá rõ ràng:
Mỗi tổ chức tham gia chương trình hằng năm phải cung cấp tối thiểu 10 báo cáo tư vấn chính sách phục vụ xây dựng, ban hành chính sách, pháp luật hoặc các giải pháp phát triển kinh tế – xã hội cho Trung ương và địa phương. Trong đó, ít nhất một báo cáo được các cơ quan của Đảng và Nhà nước tham khảo, sử dụng làm luận cứ trong ban hành văn kiện, văn bản quy phạm pháp luật hoặc triển khai thử nghiệm mô hình trong thực tiễn.
Về đối tượng triển khai, chương trình áp dụng đối với các tổ chức nghiên cứu khoa học, tổ chức nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ công lập dưới hình thức viện hàn lâm, viện nghiên cứu, trung tâm nghiên cứu; các cơ sở giáo dục đại học công lập trọng điểm về khoa học, kỹ thuật và công nghệ; Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh.
Kinh phí thực hiện chương trình được bảo đảm từ ngân sách nhà nước theo kế hoạch đầu tư công trung hạn và dự toán ngân sách hằng năm; kinh phí sự nghiệp khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số; cùng các nguồn vốn hợp pháp khác như Quỹ Phát triển khoa học và công nghệ quốc gia, Quỹ Đổi mới công nghệ quốc gia và nguồn hợp tác công tư.
Bộ Khoa học và Công nghệ được giao chủ trì tổ chức triển khai chương trình, xây dựng tiêu chí đánh giá năng lực của các tổ chức nghiên cứu và phát triển công lập, hướng dẫn xây dựng và thẩm định nhiệm vụ nâng cao năng lực, theo dõi, kiểm tra và đánh giá kết quả thực hiện, định kỳ báo cáo Thủ tướng Chính phủ.
Các Bộ, ngành và cơ quan liên quan có trách nhiệm phối hợp triển khai, bảo đảm chương trình được thực hiện đúng mục tiêu, tiến độ và hiệu quả.
Quyết định số 2813/QĐ-TTg có hiệu lực kể từ ngày ký ban hành.
Việc triển khai chương trình trong giai đoạn 2025–2030 được kỳ vọng sẽ tạo ra chuyển biến rõ nét về chất lượng và hiệu quả hoạt động của các tổ chức nghiên cứu công lập, qua đó nâng cao năng lực nội sinh của khoa học và công nghệ Việt Nam, đáp ứng yêu cầu phát triển nhanh và bền vững của đất nước trong giai đoạn mới.