GS. TS. Mai Thanh Phong: Kỳ vọng giải phóng tiềm lực KHCN thông qua cơ chế cởi mở và nguồn lực xứng tầm

<p style="text-align: justify;">Sự phát triển của khoa học công nghệ (KH&CN) chỉ có thể bứt phá khi được đặt trên các trụ cột vững chắc: Thể chế minh bạch và thông thoáng, nguồn nhân lực chất lượng cao và nguồn lực đầu tư đủ mạnh. GS.TS. Mai Thanh Phong, Hiệu trưởng trường Đại học Bách khoa (ĐHQG TP. HCM) đã có những chia sẻ về vai trò của thể chế, nhân lực và gửi gắm kỳ vọng vào thế hệ trẻ trong việc hiện thực hóa khát vọng đưa nền KH&CN nước nhà có những bước tiến đột phá.</p>

GS. TS. Mai Thanh Phong: Kỳ vọng giải phóng tiềm lực KHCN thông qua cơ chế cởi mở và nguồn lực xứng tầm   - Ảnh 1.

GS.TS. Mai Thanh Phong (Ảnh: Mai Hương)

Từ những bước khởi đầu đến giai đoạn hội nhập sâu rộng, nền KH&CN Việt Nam đã trải qua nhiều cột mốc quan trọng, gặt hái những thành tựu lớn, trở thành động lực và nền tảng gắn liền với sự phát triển của đất nước.

Giữa dòng chảy mạnh mẽ của kỷ nguyên số, nền KH&CN nước ta đang có sự chuyển mình mạnh mẽ, nhạy bén với các xu hướng công nghệ tiên tiến trên thế giới (AI, công nghệ bán dẫn, công nghệ lượng tử,...), sẵn sàng hội nhập và nâng cao năng lực cạnh tranh toàn cầu. Trong quá trình đó, chúng ta chứng kiến những thay đổi lớn về nhận thức và quan điểm chỉ đạo Đảng và Nhà nước, cho thấy chủ trương quyết liệt và định hướng nhất quán trong việc thúc đẩy sự tiến bộ toàn diện của nền khoa học công nghệ quốc gia.

Gỡ nút thắt về cơ chế

Các quyết sách được Đảng và Nhà nước ban hành gần đây như Nghị quyết số 57-NQ/TW về đột phá phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia, Nghị quyết 71-NQ/TW về Đột phá phát triển giáo dục và đào tạo, Nghị quyết 59-NQ/TW về Hội nhập quốc tế trong tình hình mới được kỳ vọng sẽ trở thành những khung định hướng vững chắc cho công cuộc chuyển đổi của quốc gia.

GS. TS. Mai Thanh Phong nhận định sự ra đời của các nghị quyết kể trên là bước ngoặt quan trọng khi chỉ ra những rào cản cố hữu và đề xuất chương trình hành động cởi mở, đồng bộ trong hoạt động khoa học công nghệ ở nước ta.

Trong một thời gian dài, việc nghiên cứu và đổi mới sáng tạo gặp khó khăn do rào cản về cơ chế, nguồn lực (nhân lực và vật lực) chưa được đầu tư tương xứng với tiềm năng, còn manh mún, ngắn hạn và thiếu chế độ đãi ngộ.

Đơn cử về việc đào tạo và thu hút nhân lực trình độ sau đại học, theo GS. TS. Mai Thanh Phong, nước ta đang đối diện với một số thách thức như hình thức đào tạo chưa thực sự chuyên sâu; thiếu cơ chế hỗ trợ học bổng và kinh phí nghiên cứu cho học viên cũng như ít lợi thế cạnh tranh trong việc giữ chân nhân tài so với các chính sách hấp dẫn của các quốc gia khác.

Hiện nay phần lớn học viên sau đại học đều phải tự chi trả học phí, gần như không được hưởng học bổng nên nhiều trường hợp, người học chỉ theo đuổi tấm bằng, thiếu động lực nghiên cứu. Riêng ở bậc tiến sĩ, người học còn phải trả thêm chi phí nghiên cứu, nhất là trong các ngành kỹ thuật, công nghệ, chi phí này tương đối cao nếu giảng viên hướng dẫn không có dự án hay nguồn bổ trợ khác.

Điều đó khiến việc thu hút nghiên cứu sinh trong nước rất khó khăn, những người có năng lực thường lựa chọn ra nước ngoài để học tiến sĩ. Số lượng trở về nước làm việc không cao, chưa đủ bù đắp cho lực lượng tiến sĩ, giáo sư về hưu, khiến tỷ lệ gia tăng tiến sĩ vẫn còn rất chậm.

Thực trạng này càng khẳng định sự cần thiết và cấp bách của những chính sách, cơ chế đầu tư và hỗ trợ đúng mức cho các hoạt động KH&CN và bồi dưỡng nhân tài, phù hợp với bối cảnh và tiềm lực phát triển đất nước.

GS. TS. Mai Thanh Phong: Kỳ vọng giải phóng tiềm lực KHCN thông qua cơ chế cởi mở và nguồn lực xứng tầm   - Ảnh 2.

Trường ĐHBK ký kết với tập đoàn Marvell về đào tạo, nghiên cứu về vi mạch bán dẫn (Ảnh: Mai Hương)

Tận dụng đòn bẩy từ nghị quyết mới

Nghị quyết 57-NQ/TW về đột phá phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo đã gợi mở những chương trình hành động bám sát thực tiễn nhằm giải quyết một số bất cập về KH&CN ở nước ta.

Thể chế mới của Nghị quyết chấp nhận tính rủi ro đầu tư mạo hiểm và độ trễ trong nghiên cứu khoa học, có chính sách miễn trừ trách nhiệm đối với doanh nghiệp, tổ chức, cá nhân trong trường hợp thử nghiệm công nghệ mới, mô hình kinh doanh mới mà có thiệt hại về kinh tế do nguyên nhân khách quan. Ngoài ra, Nghị quyết cũng cho thấy mức độ đầu tư mạnh về kinh phí, hạ tầng..., trong khi trước đây, nguồn kinh phí này vẫn còn hạn chế.

Theo GS. TS. Mai Thanh Phong, điều này giúp cho các nhà nghiên cứu, nhà khoa học cảm thấy yên tâm hơn khi tiến hành nghiên cứu, từ đó có thể khơi dậy sự mạnh dạn và tinh thần sáng tạo.

Bên cạnh đó, Nghị quyết 71-NQ/TW về Đột phá phát triển giáo dục và đào tạo đặt mục tiêu phát triển nhân lực trình độ cao và nhân tài, dẫn dắt nghiên cứu, đổi mới sáng tạo, đào tạo nhân tài quốc gia thông qua hội nhập quốc tế, tăng cường chính sách hỗ trợ giảng viên nâng cao trình độ ở nước ngoài, chủ động xây dựng chương trình thu hút giảng viên xuất sắc từ nước ngoài với ưu đãi vượt trội, đồng thời đổi mới mạnh mẽ chương trình đào tạo theo chuẩn quốc tế.

Nghị quyết này mở ra thời kỳ hội nhập toàn diện, trao quyền tự chủ mạnh mẽ cho các cơ sở giáo dục đại học, tạo cơ chế đặc thù phát triển đại học nghiên cứu đẳng cấp quốc tế và chiến lược đưa nguồn nhân lực Việt Nam hội nhập toàn cầu.

GS. TS. Mai Thanh Phong nhận định, cùng với Nghị quyết 57-NQ/TW, Nghị quyết 71-NQ/TW tiếp tục là điểm sáng có nghĩa quan trọng đối với các cơ sở giáo dục đại học trong việc cải tiến mô hình quản trị, đổi mới và nâng cao chất lượng đào tạo, nghiên cứu. Mong rằng, chủ trương của các nghị quyết sẽ tiếp tục được cụ thể hóa thành chính sách rõ ràng để đầu tư xứng đáng cho nguồn nhân lực KH&CN của nước ta.

Nêu kiến nghị ở góc độ của nhà quản lý giáo dục đại học, GS. TS. Mai Thanh Phong cho rằng việc tăng cường đội ngũ tham gia nghiên cứu về cả số lượng và chất lượng nên là ưu tiên hàng đầu. Theo ông, để phát triển đội ngũ tiến sĩ chất lượng cao, Nhà nước cần có chính sách về học phí và học bổng cho nghiên cứu sinh. Các dự án hoặc đề tài nghiên cứu cần có nguồn kinh phí dành riêng để chi trả cho nhân lực tham gia. Hiện nay, đề tài cấp Nhà nước có cấp kinh phí cho nhân công nhưng chủ yếu theo hình thức khoán từng nhiệm vụ, mức chi trả chưa tương xứng. Vì vậy, cần có cơ chế rõ ràng để hỗ trợ trực tiếp cho nghiên cứu sinh.

Những năm qua, Trường Đại học Bách khoa (ĐHQG TP. HCM) đã có nhiều giải pháp để thúc đẩy đào tạo, nghiên cứu khoa học và đổi mới sáng tạo, tiêu biểu trong đó có đề án nâng cao thu nhập của giảng viên, chương trình hỗ trợ và phát triển các nhóm nghiên cứu, chương trình hỗ trợ công bố quốc tế để tạo động lực cho các nhà khoa học.

Nhờ đó, số lượng công bố khoa học của trường đã tăng gấp năm lần trong hơn một thập kỷ, đạt trên 1.000 bài/năm, trong đó hơn một nửa được đăng ở các tạp chí uy tín xếp thứ hạng cao. Đặc biệt, trong đợt tuyển dụng vừa qua, có những ngành nhà trường chỉ tuyển 4-5 giảng viên nhưng nhận được gần 20 hồ sơ ứng tuyển, phần lớn là tiến sĩ tốt nghiệp từ nước ngoài. Đây là tín hiệu tích cực, cho thấy lực lượng tiến sĩ Việt Nam ở nước ngoài vẫn rất đông và nhiều người có mong muốn trở về nếu có chế độ đãi ngộ phù hợp.

Bên cạnh đó, GS. TS. Mai Thanh Phong đề xuất việc đầu tư, nâng cao chất lượng đào tạo cũng cần được quan tâm, tạo điều kiện. Trước hết, Nhà nước cần tăng cường đầu tư cơ sở vật chất, đặc biệt là hệ thống phòng thí nghiệm, trang thiết bị thực hành và nghiên cứu. Nếu thiếu phòng thí nghiệm hiện đại, trang thiết bị đạt chuẩn, chất lượng đào tạo và nghiên cứu nói chung sẽ khó được đảm bảo.

Nguồn nhân lực trẻ cần chủ động thích ứng và tự nâng cao năng lực

Dù nguồn nhân lực cho KH&CN nói chung còn tương đối hạn chế so với nhu cầu, song lực lượng trẻ trong khối ngành công nghệ kỹ thuật tại Việt Nam đang có tiềm năng phát triển mạnh về cả số lượng lẫn chất lượng nếu được định hướng và đào tạo bài bản từ sớm.

 GS. TS. Mai Thanh Phong cho rằng, lực lượng trẻ ngày nay rất nhanh nhạy với công nghệ, có tính chủ động và tính sẵn sàng cao trong kỷ nguyên số. Thêm vào đó, trong bối cảnh đất nước tăng cường đào tạo nhân lực KH&CN và đổi mới sáng tạo, các cơ sở giáo dục đại học đặc biệt chú trọng cải tiến chương trình, thí điểm một số ngành mới nổi nhằm nâng cao chất lượng nguồn nhân lực đáp ứng thị trường lao động.

" Đây là cơ hội tốt cho thế hệ trẻ khi các bạn được thụ hưởng nền tảng giáo dục tiên tiến có sự giao thoa với quốc tế, được tiếp cận với các xu hướng công nghệ kỹ thuật hiện đại cũng như các xu hướng ngành nghề phổ biến", GS. TS. Mai Thanh Phong khẳng định.

Bức tranh tổng quan về tuyển sinh đại học vài năm trở lại đây cũng cho thấy sự khởi sắc ở khối ngành STEM, đặc biệt ở lĩnh vực công nghệ thông tin, trí tuệ nhân tạo, vi mạch bán dẫn, an ninh mạng…  những ngành luôn có điểm trúng tuyển nằm ở tốp đầu. Sự ưu tiên của những thí sinh có học lực tốt và định hướng nghề nghiệp cụ thể đối với khối ngành này mở ra niềm tin về một thế hệ trẻ vững chuyên môn, giỏi ngoại ngữ, tạo tiền đề bổ sung cho nguồn nhân lực khoa học công nghệ của đất nước vốn đang thiếu hụt.

Dù vậy, theo GS.TS. Mai Thanh Phong, sinh viên và lực lượng lao động trẻ đang đứng trước những thách thức lớn từ sự thay đổi nhanh chóng của công nghệ, kéo theo đó là những làn sóng dịch chuyển mạnh mẽ trong cơ cấu ngành nghề, kinh tế và đời sống xã hội. Ông kỳ vọng thế hệ trẻ hôm nay sẽ trở thành lực lượng lao động khoa học và công nghệ cốt lõi của đất nước. Để làm được điều đó, mỗi bạn trẻ cần nhận thức rõ bối cảnh hiện tại, biết tận dụng cơ hội như một bàn đạp, đồng thời giữ vững niềm tin để đối diện với thử thách.

Theo GS.TS. Mai Thanh Phong, các bạn trẻ nên xây dựng cho mình kế hoạch dài hạn, kiên trì rèn luyện kỹ năng, trong đó quan trọng nhất là khả năng tự học, tự nâng cao năng lực và thích ứng linh hoạt trước sự biến đổi của thời đại. Bên cạnh đó là sự cởi mở trong tư duy và hành động, dám kiên trì theo đuổi đam mê và sẵn sàng dấn thân với lựa chọn của mình.

“Đó cũng chính là niềm tin tôi đặt vào thế hệ trẻ Việt Nam – những người vốn có truyền thống hiếu học, cần cù, chăm chỉ – sẽ tiếp tục viết nên hành trình đưa khoa học và công nghệ nước nhà bứt phá”, GS.TS. Mai Thanh Phong nhấn mạnh.