Hoàn thiện hệ thống TCVN trong lĩnh vực Halal

<p style="text-align: justify;"><i>Thị trường Halal toàn cầu là thị trường lớn và đầy tiềm năng. Tính đến nay, Việt Nam đã ban hành 6 tiêu chuẩn quốc gia liên quan trực tiếp đến Halal, bao gồm 4 tiêu chuẩn cho chuỗi thực phẩm, 1 tiêu chuẩn cho dịch vụ du lịch thân thiện với người Hồi giáo và 1 tiêu chuẩn quy định yêu cầu đối với tổ chức chứng nhận sản phẩm Halal.</i></p>

Chủ tịch Uỷ ban Tiêu chuẩn Đo lường Chất lượng (TĐC) Quốc gia, Bộ Khoa học và Công nghệ (KH&CN) Nguyễn Nam Hải cho biết tại hội nghị sơ kết Đề án "Tăng cường hợp tác quốc tế để xây dựng và phát triển ngành Halal Việt Nam đến năm 2030" vừa diễn ra gần đây tại Hà Nội.

Xây dựng hệ thống tiêu chuẩn đầy đủ, đồng bộ

Theo Chủ tịch Ủy ban TĐC Quốc gia Nguyễn Nam Hải, hiện nay, phát triển lĩnh vực Halal dựa trên 3 trụ cột chính gồm: Hoàn thiện hệ thống tiêu chuẩn, nâng cao năng lực hoạt động chứng nhận và tăng cường hiệu quả quản lý nhà nước. Trước hết, về công tác xây dựng tiêu chuẩn quốc gia (TCVN), hệ thống tiêu chuẩn được xem là nền tảng của mọi hoạt động quản lý chất lượng. Ủy ban TĐC Quốc gia đã và đang tích cực xây dựng hệ thống TCVN trong lĩnh vực Halal.

Tính đến nay, Việt Nam đã ban hành 6 tiêu chuẩn quốc gia liên quan trực tiếp đến Halal, bao gồm 4 tiêu chuẩn cho chuỗi thực phẩm (yêu cầu chung, giết mổ, thực hành nông nghiệp tốt và thức ăn chăn nuôi), 1 tiêu chuẩn cho dịch vụ du lịch thân thiện với người Hồi giáo và 1 tiêu chuẩn quy định yêu cầu đối với tổ chức chứng nhận sản phẩm Halal.

Đồng thời, Ủy ban TĐC Quốc gia đã giao Viện Tiêu chuẩn Chất lượng Việt Nam (Ủy ban TĐC Quốc gia) phối hợp các Ban kỹ thuật để đề xuất xây dựng thêm 17 tiêu chuẩn mới, trong đó có 3 tiêu chuẩn chung về sản phẩm, dịch vụ Halal và 14 tiêu chuẩn về thực phẩm Halal, bao gồm cả việc soát xét TCVN 12944:2020 - Thực phẩm Halal - Yêu cầu chung. Mục tiêu của Ủy ban TĐC Quốc gia là xây dựng một hệ thống tiêu chuẩn đầy đủ, đồng bộ, vừa đáp ứng nhu cầu trong nước vừa hài hòa tiêu chuẩn quốc tế, đặc biệt là các tiêu chuẩn của OIC/SMIIC (Viện Tiêu chuẩn Đo lường các nước Hồi giáo thuộc Tổ chức Hợp tác Hồi giáo (OIC).

Về năng lực hoạt động chứng nhận Halal, đến nay Ủy ban TĐC Quốc gia đã cấp giấy chứng nhận đăng ký hoạt động chứng nhận sản phẩm, dịch vụ Halal cho ba tổ chức gồm: Trung tâm Chứng nhận Halal Quốc gia (HALCERT) trực thuộc QUACERT, Công ty TNHH Văn phòng Chứng nhận Halal và Công ty TNHH Chứng nhận Halal Toàn cầu (GHC). Các tổ chức này đã cấp chứng nhận Halal cho hơn 1.000 doanh nghiệp, điều này cho thấy nhu cầu lớn và sự sẵn sàng của doanh nghiệp Việt Nam trong việc tham gia thị trường Halal.

Hoàn thiện hệ thống TCVN trong lĩnh vực Halal- Ảnh 1.

Các đại biểu tham dự tại hội nghị sơ kết Đề án “Tăng cường hợp tác quốc tế để xây dựng và phát triển ngành Halal Việt Nam đến năm 2030”

Đánh giá về tiềm năng của thị trường Halal, ông Abbas, Chủ tịch tổ chức Chứng nhận Halal Việt Nam cho rằng "Chúng ta đang sống trong một thời kỳ đầy thách thức nhưng cũng đầy cơ hội, nơi việc tuân thủ các tiêu chuẩn Halal không chỉ là trách nhiệm tôn trọng các giá trị tôn giáo mà còn là cơ hội để mở rộng thị trường và phát triển kinh doanh bền vững".

Theo ông Abbas, chứng nhận Halal không chỉ đơn thuần là một con dấu trên sản phẩm; nó là biểu tượng của sự cam kết với chất lượng và sự tôn trọng đối với nhu cầu của người tiêu dùng. Việc cấp chứng nhận Halal là một nhiệm vụ hết sức nghiêm túc và quan trọng. Đó không chỉ là việc xác minh các nguyên liệu và quy trình sản xuất mà còn là việc bảo đảm rằng toàn bộ chuỗi cung ứng từ sản xuất đến tiêu thụ đều tuân thủ các quy định Halal một cách chặt chẽ.

"Sự gia tăng nhu cầu đối với các sản phẩm và dịch vụ Halal trên toàn thế giới không chỉ là một dấu hiệu rõ ràng cho sự phát triển của cộng đồng Hồi giáo mà còn là một cơ hội lớn cho các doanh nghiệp để mở rộng thị trường của mình", ông Abbas nhấn mạnh.

Hoàn thiện hành lang pháp lý

Trong khi chứng nhận Halal là tấm giấy thông hành để vào được các thị trường khó tính thì PGS.TS Lê Phước Minh, nguyên Viện trưởng Viện Nghiên cứu Châu phi và Trung Đông (Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam) cho rằng, thách thức lớn nhất của Việt Nam lại cũng nằm ở quy trình chứng nhận Halal vẫn còn phức tạp, chưa hài hòa với quốc tế. Mặc dù số lượng doanh nghiệp Việt Nam đạt chứng nhận Halal đang tăng, song vẫn chưa đáp ứng đủ nhu cầu của thị trường, trong đó, việc thiếu hiểu biết về quy trình và tiêu chuẩn Halal là một trong những rào cản đối phần nhiều doanh nghiệp.

Bà Phạm Hoài Linh, Vụ Phát triển thị trường nước ngoài, Bộ Công thương cho biết, vẫn còn khó khăn khi chưa có bộ tiêu chuẩn Halal thống nhất trên toàn cầu và thiếu sự công nhận lẫn nhau về giấy chứng nhận Halal, khiến quy trình cấp chứng nhận của Việt Nam chưa được công nhận rộng rãi, nhận thức của cộng đồng doanh nghiệp Việt Nam về chứng nhận Halal trong khi vẫn phải cạnh tranh gay gắt từ các nước Hồi giáo và các nước phi Hồi giáo đã đi trước.

Giải pháp để khai thác thị trường lớn và có tốc độ tăng trưởng nhanh này, theo bà Linh, cần tiếp tục đẩy mạnh xúc tiến thương mại và đầu tư, tăng cường hỗ trợ kết nối, cung cấp thông tin về thị trường Halal, phối hợp với các bộ ngành để thúc đẩy mở cửa thị trường quốc tế, giúp giấy chứng nhận Halal của Việt Nam được nhiều nước công nhận thông qua công nhận lẫn nhau.

Để tận dụng cơ hội mở rộng thị trường Halal, Giám đốc Trung tâm Chứng nhận phù hợp, Uỷ ban TĐC Quốc gia Nguyễn Tuấn Anh nhận định, cần phối hợp hoàn thiện pháp lý; nâng cao năng lực tổ chức chứng nhận và chuyên gia; hỗ trợ doanh nghiệp, đặc biệt doanh nghiệp vừa và nhỏ.

Hoàn thiện hệ thống TCVN trong lĩnh vực Halal- Ảnh 2.

Sự gia tăng nhu cầu đối với các sản phẩm và dịch vụ Halal trên toàn thế giới là một cơ hội lớn cho các doanh nghiệp Việt

Bên cạnh đó, thiết lập cơ chế công nhận quốc tế để đảm bảo chứng chỉ Halal Việt Nam được chấp nhận trên thị trường mục tiêu. Nếu thực hiện đồng bộ các khuyến nghị nêu trên trong 2-3 năm tới, Việt Nam có thể tăng đáng kể giá trị xuất khẩu Halal và củng cố vị thế trong chuỗi cung ứng toàn cầu.

Còn theo Chủ tịch Ủy ban TĐC Quốc gia Nguyễn Nam Hải, thách thức lớn hiện nay trong hoạt động chứng nhận Halal của Việt Nam là vấn đề công nhận và thừa nhận quốc tế. Nguyên nhân chủ yếu đến từ việc thị trường Halal toàn cầu chưa có sự hài hòa về tiêu chuẩn, khi mỗi quốc gia hoặc khu vực như Malaysia, Indonesia, các nước vùng Vịnh hay Thổ Nhĩ Kỳ đều có hệ thống công nhận riêng, khiến doanh nghiệp xuất khẩu phải xin nhiều loại chứng nhận khác nhau. Ngoài ra, còn tồn tại các rào cản kỹ thuật như quy định của Malaysia yêu cầu tổ chức chứng nhận phải thuộc sở hữu của người Hồi giáo, gây khó khăn cho các tổ chức chứng nhận của Việt Nam, đặc biệt là các đơn vị sự nghiệp công lập.

Trước những thách thức đó, hoạt động quản lý nhà nước đóng vai trò đặc biệt quan trọng, nhất là trong việc thúc đẩy hợp tác quốc tế và hoàn thiện hành lang pháp lý. Bộ KH&CN đang tích cực mở rộng hợp tác đa phương và song phương nhằm hướng tới công nhận lẫn nhau trong lĩnh vực Halal.

Ngoài ra, Ủy ban TĐC Quốc gia đã ký Biên bản ghi nhớ với Tổ chức Tiêu chuẩn Quốc gia Iran (INSO) và Thỏa thuận hợp tác kỹ thuật với Tổ chức Tiêu chuẩn Đo lường và Chất lượng Ả-rập Xê-út (SASO). Bộ KH&CN cũng làm việc với Bộ Công nghiệp và Công nghệ Tiên tiến UAE (MoIAT), thống nhất đẩy mạnh hợp tác trong lĩnh vực Halal và giao Ủy ban làm đầu mối triển khai kế hoạch cụ thể. Đồng thời, Ủy ban TĐC Quốc gia cũng đang tăng cường trao đổi và tìm kiếm cơ hội hợp tác với các tổ chức quốc tế quan trọng như GAC, SMIIC và HAK (Cơ quan Halal Thổ Nhĩ Kỳ).

Bên cạnh đó, Bộ KH&CN chủ trì xây dựng Dự thảo Nghị định về quản lý chất lượng và chính sách phát triển sản phẩm, dịch vụ Halal. "Việc sớm ban hành Nghị định về Halal, kết hợp các hoạt động ngoại giao tiêu chuẩn nhằm tháo gỡ rào cản công nhận quốc tế, sẽ là chìa khóa quan trọng mở rộng cánh cửa thị trường Halal toàn cầu - một lĩnh vực đầy tiềm năng cho doanh nghiệp Việt Nam", ông Hải cho biết.