KH,CN,ĐMST&CĐS: Những kết quả quan trọng đóng góp cho tăng trưởng giai đoạn 2021-2025
<p style="text-align: justify;">Giai đoạn 2021–2025, kinh tế Việt Nam giữ vững ổn định vĩ mô, lạm phát được kiểm soát và tăng trưởng duy trì ở mức khá, với quy mô GDP năm 2025 ước đạt trên 510 tỷ USD. Trong bối cảnh đó, khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số (KH,CN,ĐMST&CĐS) ngày càng khẳng định vai trò quan trọng, tạo nền tảng nâng cao năng suất, năng lực cạnh tranh và đóng góp thiết thực cho tăng trưởng.</p>
Những kết quả ấn tượng giai đoạn 2021-2025
Theo dự thảo Báo cáo đánh giá 5 năm thực hiện Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 10 năm 2021 – 2030, kinh tế Việt Nam giữ vững ổn định vĩ mô, lạm phát được kiểm soát, các cân đối lớn của nền kinh tế được bảo đảm và tăng trưởng duy trì ở mức khá trong bối cảnh nhiều biến động toàn cầu. Tăng trưởng kinh tế được duy trì ở mức khá cao so với khu vực và thế giới, tốc độ tăng tổng sản phẩm trong nước (GDP) bình quân giai đoạn 2021 - 2025 khoảng 6,3%/năm, trong đó dự kiến năm 2025 tăng từ 8,3 - 8,5%.

Tăng trưởng kinh tế của Việt Nam duy trì ở mức khá cao so với khu vực và thế giới. Ảnh minh họa.
Quy mô GDP từ 346,6 tỉ USD năm 2020, xếp thứ 37 trên thế giới, dự kiến tăng lên trên 510 tỉ USD năm 2025, gấp 1,47 lần so với năm 2020, xếp thứ 32 thế giới và thứ 4 trong khu vực ASEAN; GDP bình quân đầu người gấp 1,4 lần, tăng từ 3.552 USD lên khoảng 5.000 USD.
Thu nhập quốc dân (GNI) bình quân đầu người tăng từ 3.400 USD năm 2020 lên 4.490 USD năm 2024, tiệm cận mức thu nhập trung bình cao; đến năm 2025 đạt khoảng 4.700 USD, bước vào nhóm các nước có thu nhập trung bình cao.
Chất lượng tăng trưởng có chuyển biến tích cực, năng suất lao động tăng bình quân 5,3%/năm, đóng góp của các nhân tố tổng hợp (TFP) vào tăng trưởng kinh tế đạt khoảng 47%. Đầu tư công được phân bổ, sử dụng có trọng tâm, trọng điểm, hiệu quả hơn; chất lượng đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) tiếp tục được cải thiện...
Theo dự thảo Báo cáo, các ngành, lĩnh vực đều có bước tiến rõ nét: công nghiệp và dịch vụ tiếp tục giữ vai trò động lực; 2 vùng công nghiệp lớn của cả nước Đông Nam Bộ và đồng bằng sông Hồng tiếp tục giữ vai trò động lực phát triển công nghiệp; nông nghiệp phát triển theo hướng sinh thái, tuần hoàn, hữu cơ và công nghệ cao; khu vực kinh tế tư nhân phát triển năng động, đóng góp khoảng 51% GDP, trên 30% thu ngân sách, sử dụng 82% lao động; thương mại, đầu tư và hạ tầng kinh tế – xã hội được cải thiện mạnh. Cùng với đó, hạ tầng số, hạ tầng viễn thông, hệ thống cơ sở dữ liệu quốc gia, dịch vụ công trực tuyến và thương mại điện tử phát triển nhanh, tạo nền tảng quan trọng cho chuyển đổi số quốc gia.
KH,CN,ĐMST&CĐS: Động lực chính cho tăng trưởng
Theo dự thảo Báo cáo đánh giá 5 năm thực hiện Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 10 năm 2021–2030, kết quả trong lĩnh vực KH,CN,ĐMST&CĐS được ghi nhận rõ nét.
Cơ chế, chính sách về KH,CN&ĐMST có những đổi mới căn bản theo tinh thần Nghị quyết số 57-NQ/TW của Bộ Chính trị. Hai công trình hạ tầng chiến lược gồm Trung tâm Đổi mới sáng tạo quốc gia và Trung tâm Dữ liệu quốc gia đã hoàn thành và đưa vào vận hành, góp phần tạo động lực thúc đẩy đổi mới sáng tạo, chuyển đổi mô hình tăng trưởng và nâng cao giá trị gia tăng của nền kinh tế.
Một số lĩnh vực khoa học tự nhiên đạt trình độ tiên tiến trong khu vực và thế giới; số lượng công trình nghiên cứu được công bố trên các tạp chí quốc tế tiếp tục tăng. Nhiều thành tựu KH&CN hiện đại được ứng dụng nhanh chóng trong y tế, nông nghiệp, công nghiệp, thông tin…, mang lại hiệu quả rõ rệt trong nâng cao năng suất và chất lượng sản phẩm, dịch vụ.
Hệ thống đổi mới sáng tạo quốc gia được hình thành và phát triển mạnh mẽ; Mạng lưới đổi mới sáng tạo Việt Nam được thiết lập và kết nối với mạng lưới toàn cầu. Chỉ số đổi mới sáng tạo toàn cầu (GII) của Việt Nam liên tục được cải thiện, thuộc nhóm dẫn đầu trong các quốc gia có thu nhập trung bình.

Tiến bộ về xếp hạng chỉ số GII của Việt Nam từ 2017 - 2025.
Thị trường KH&CN có bước phát triển; hệ sinh thái khởi nghiệp sáng tạo được củng cố, nhiều khu công nghệ cao tiếp tục được đầu tư, đóng vai trò là hạt nhân phát triển công nghệ mới. Hệ thống tiêu chuẩn đo lường chất lượng và sở hữu trí tuệ được củng cố theo hướng phù hợp với tiêu chuẩn và cam kết quốc tế.
Đội ngũ trí thức KH&CN phát triển cả về số lượng và chất lượng; một số nhà khoa học Việt Nam được thế giới công nhận, vinh danh. Việc tăng cường tự chủ cho các tổ chức KH&CN công lập được đẩy mạnh; nhiều tổ chức KH&CN tiên tiến tầm quốc tế được thành lập ở cả khu vực công và tư.
Việc phát triển và ứng dụng dữ liệu dân cư, định danh và xác thực điện tử được triển khai mạnh mẽ, quyết liệt từ Trung ương đến địa phương, tạo nền tảng thúc đẩy chuyển đổi số quốc gia. Tốc độ tăng trưởng kinh tế số đạt bình quân 9 - 10%/năm, chiếm khoảng 14 - 15% GDP năm 2025. Theo báo cáo của Bộ KH&CN, tỉ trọng kinh tế số trong GDP năm 2025 ước đạt 19 - 20%.
Hạ tầng thông tin, truyền thông và hạ tầng số tiếp tục được mở rộng, hiện đại hóa: Độ phủ 4G đạt 99,8%, cao hơn mức trung bình các nước thu nhập cao (99,4%); 100% xã, phường có hạ tầng băng rộng cáp quang; độ phủ cáp quang hộ gia đình đạt 80,1%, cao hơn trung bình thế giới (60%); tỷ lệ người dùng điện thoại thông minh (smartphone)/người dùng điện thoại di động ước đạt 84,4%, cao hơn trung bình thế giới (63%).
Hệ thống cơ sở dữ liệu quốc gia từng bước được hình thành, tích hợp và kết nối, chia sẻ dữ liệu giữa các bộ, ngành, địa phương; hạ tầng bưu chính được phát triển theo hướng đáp ứng yêu cầu của kinh tế số và thương mại điện tử.
Chuyển đổi số được thúc đẩy mạnh trong các ngành, lĩnh vực, góp phần nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước, cải thiện chất lượng dịch vụ công và giảm chi phí cho người dân và doanh nghiệp.
Bên cạnh những kết quả đạt được, dự thảo Báo cáo cũng nêu rõ một số hạn chế. KH&CN chưa trở thành động lực quan trọng cho công nghiệp hoá, hiện đại hoá; phát triển KH,CN&ĐMST thiếu đột phá; Việt Nam chưa làm chủ các công nghệ chiến lược, công nghệ lõi, công nghệ nguồn. Liên kết viện – trường – doanh nghiệp, thương mại hoá kết quả nghiên cứu còn hạn chế; nhân lực chất lượng cao còn thiếu. Hạ tầng KH&CN và hạ tầng số chưa đồng bộ.
Những kết quả đạt được về KH,CN,ĐMST&CĐS giai đoạn 2021–2025 không chỉ góp phần nâng cao năng suất và sức cạnh tranh của nền kinh tế mà còn tạo nền tảng quan trọng cho giai đoạn phát triển tiếp theo. Dự thảo Văn kiện Đại hội XIV xác định rõ: "Xác lập mô hình tăng trưởng mới với mục tiêu là nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả, giá trị gia tăng và sức cạnh tranh của nền kinh tế; lấy khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số làm động lực chính; tạo ra sức sản xuất và phương thức sản xuất mới chất lượng cao, trọng tâm là kinh tế dữ liệu, kinh tế số; đẩy mạnh chuyển đổi số, chuyển đổi xanh, chuyển đổi năng lượng, chuyển đổi cơ cấu và chất lượng nguồn nhân lực".
Việc kiên định các định hướng chiến lược đó, cùng với đẩy mạnh ứng dụng KH&CN, phát triển kinh tế số và thúc đẩy đổi mới sáng tạo trong toàn xã hội, sẽ tạo cơ sở để Việt Nam hình thành các cực tăng trưởng mạnh, các vùng kinh tế trọng điểm và các mô hình phát triển mới ngang tầm khu vực, hướng tới mục tiêu phát triển nhanh và bền vững trong giai đoạn tới.