Luật Trí tuệ nhân tạo: Chỉ điều chỉnh đầu ra và hành vi sử dụng trí tuệ nhân tạo, không cản trở đổi mới sáng tạo
<p style="text-align: justify;">Với 90,70% đại biểu tán thành, Luật Trí tuệ nhân tạo (AI) chính thức được Quốc hội thông qua chiều ngày 10/12, đánh dấu bước tiến quan trọng trong hoàn thiện hành lang pháp lý cho công nghệ mới nổi. Luật xác lập nguyên tắc chỉ điều chỉnh đầu ra và hành vi sử dụng, không can thiệp vào mô hình, qua đó bảo đảm không cản trở đổi mới sáng tạo, đồng thời đặt trọng tâm vào an toàn, minh bạch và trách nhiệm giải trình.</p>

Toàn cảnh Phiên họp.
Tiếp cận quản lý AI dựa trên rủi ro: Hài hòa giữa an toàn và phát triển
Trước khi tiến hành biểu quyết, Quốc hội nghe Bộ trưởng Bộ Khoa học và Công nghệ (KH&CN) Nguyễn Mạnh Hùng thừa ủy quyền của Thủ tướng Chính phủ báo cáo Quốc hội về việc tiếp thu, giải trình và chỉnh lý dự thảo Luật AI.
Bộ trưởng cho biết, dự thảo luật dài 20 trang với 35 Điều. Nội dung các điều khoản của dự thảo luật đã thể chế hóa các chủ trương chính sách mới của Đảng, đáp ứng các yêu cầu và mục tiêu xây dựng luật.
Bộ trưởng khẳng định, AI là lĩnh vực mới và gần đây có sự phát triển rất nhanh, tác động ở tầng sâu đến kinh tế, văn hóa, xã hội, an ninh và phương thức quản trị quốc gia. Việc Việt Nam sớm ban hành Luật AI là cần thiết, để tạo khuôn khổ pháp lý cho phát triển bền vững, bảo đảm chủ động nắm bắt cơ hội, cũng như quản trị rủi ro.
Trong quá trình xây dựng, Chính phủ đã nghiên cứu kỹ kinh nghiệm quốc tế, cụ thể như châu Âu là quản lý chặt, tập trung vào an toàn, Nhật Bản chủ yếu phát triển, Hàn Quốc có cả an toàn và phát triển nhưng phần an toàn là khá nhẹ.
"Việt Nam chọn cách tiếp cận kết hợp có chọn lọc, bảo đảm hài hòa cả an toàn và phát triển. An toàn thì cao hơn mức cơ bản của Hàn Quốc nhưng nhẹ hơn và ít thủ tục hơn của châu Âu. Phát triển thì mạnh mẽ như của Nhật Bản. Đây là mô hình phù hợp với điều kiện Việt Nam", Bộ trưởng Nguyễn Mạnh Hùng khẳng định.
Giải trình về một số nội dung lớn, Bộ trưởng Nguyễn Mạnh Hùng cho biết: Về cấu trúc luật, dự thảo là luật khung ngắn gọn quy định nguyên tắc và khuôn khổ quản lý nhà nước đối với AI. Những nội dung kỹ thuật sẽ được quy định tại nghị định. Đây là cách tiếp cận phù hợp với lĩnh vực công nghệ, có tốc độ phát triển nhanh.
Về mô hình AI, Luật không điều chỉnh mô hình, bởi mô hình là sáng tạo nội bộ của doanh nghiệp. Luật chỉ điều chỉnh đầu ra và hành vi sử dụng AI cũng như rủi ro AI gây ra đối với xã hội. Đây là thông lệ quốc tế bảo đảm không cản trở đổi mới sáng tạo.
Về quản lý theo mức độ rủi ro, dự thảo Luật đã giảm từ bốn xuống ba mức: Rủi ro thấp, trung bình và cao, kèm theo một điều về các hành vi bị cấm bảo đảm phân tầng quản lý rõ ràng và minh bạch.

Bộ trưởng Bộ KH&CN Nguyễn Mạnh Hùng trình bày Báo cáo tiếp thu, giải trình, chỉnh lý dự thảo Luật.
Giải trình về kiểm tra hệ thống AI rủi ro cao, Bộ trưởng Nguyễn Mạnh Hùng khẳng định, dự thảo Luật quy định nghĩa vụ tối thiểu trước khi triển khai; doanh nghiệp phải tự chuẩn bị hồ sơ đánh giá an toàn nhưng không phải xin phép; hồ sơ sẽ phải xuất trình khi cơ quan quản lý thực hiện hậu kiểm.
Về bồi thường thiệt hại, dự thảo đã bỏ mức phạt theo doanh thu. Luật quy định bồi thường toàn bộ thiệt hại và có chế tài đình chỉ cung cấp dịch vụ. Đây là các biện pháp đủ mạnh và phù hợp với luật pháp Việt Nam.
Về việc hệ thống AI rủi ro cao có phải là nguồn nguy hiểm cao độ hay không? Hệ AI trong dự thảo là phần mềm rủi ro từ việc ra quyết định, không phải rủi ro vật lý tự thân như xe cơ giới hay chất nổ. Vì vậy, dự thảo Luật không xếp hệ thống AI có rủi ro cao vào nhóm nguồn nguy hiểm cao độ. Tuy nhiên, để tăng cường bảo vệ người dân, dự thảo Luật bổ sung cơ chế bồi thường thiệt hại nghiêm ngặt, quy định trách nhiệm bồi thường thiệt hại cho các chủ thể liên quan ngay cả khi không có lỗi.
Đối với quy định về thúc đẩy phát triển và đổi mới sáng tạo trong lĩnh vực AI, dự thảo Luật đưa ra các chính sách thúc đẩy phát triển chuyển giao, gồm: Phát triển hạ tầng AI, mở rộng tiếp cận dữ liệu dùng chung, hỗ trợ thử nghiệm mô hình mới, ưu đãi cho doanh nghiệp AI, phát triển nhân lực và hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa ứng dụng AI. Các chính sách này nhằm hình thành hệ sinh thái AI tự chủ, nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia.
Sau khi nghe báo cáo giải trình, Quốc hội tiến hành biểu quyết và thông qua Luật AI với 429/434 đại biểu tham gia biểu quyết tán thành, chiếm 90,70%.
Lấy con người làm trung tâm: An toàn, minh bạch và trách nhiệm
Luật AI gồm 35 điều, bao quát toàn diện từ nguyên tắc phát triển, các chính sách của Nhà nước, cơ chế phân loại - quản lý rủi ro, yêu cầu minh bạch, xử lý sự cố cho tới đánh giá sự phù hợp với các hệ thống AI rủi ro cao.
Trọng tâm xuyên suốt của Luật là lấy con người làm trung tâm, đảm bảo an toàn, minh bạch và trách nhiệm giải trình, đồng thời tạo điều kiện thúc đẩy đổi mới sáng tạo trong cả khu vực công và tư.

Các đại biểu tham gia Phiên họp.
Luật AI yêu cầu duy trì kiểm soát của con người đối với mọi quyết định quan trọng của hệ thống AI, hạn chế thiên lệch và phân biệt đối xử; khuyến khích phát triển AI xanh, bền vững và bao trùm.
Nhà nước ưu tiên phát triển hạ tầng dữ liệu - tính toán, mở rộng dữ liệu dùng chung, hỗ trợ thử nghiệm công nghệ mới, thúc đẩy hệ sinh thái đổi mới sáng tạo và ứng dụng AI trong quản lý nhà nước, cung cấp dịch vụ công.
Luật AI cũng đặt yêu cầu quản lý chặt với AI trong các lĩnh vực thiết yếu như y tế, giáo dục; bảo đảm an toàn dữ liệu, quyền riêng tư và phù hợp đặc thù. Nghiên cứu khoa học ứng dụng AI phải tuân thủ đạo đức và liêm chính khoa học.
Để bảo vệ người dân, luật quy định danh mục hành vi bị cấm như sử dụng AI để giả mạo, thao túng nhận thức, thu thập - xử lý dữ liệu trái phép hoặc làm sai lệch thông tin bắt buộc phải minh bạch. Bên cạnh đó, luật thiết lập Cổng thông tin điện tử một cửa về AI và Cơ sở dữ liệu quốc gia về hệ thống AI, giúp tăng minh bạch, hỗ trợ đăng ký thử nghiệm, phân loại rủi ro và báo cáo sự cố.
Luật AI cũng quy định minh bạch với nội dung do AI tạo ra: Âm thanh, hình ảnh, video phải gắn dấu hiệu nhận diện máy đọc; sản phẩm dễ gây nhầm lẫn phải dán nhãn.
Trong trường hợp sự cố nghiêm trọng, các chủ thể phải kịp thời ghi nhận, thông báo và khắc phục; cơ quan quản lý có thể yêu cầu tạm dừng hoặc thu hồi hệ thống.
Luật xác định hạ tầng AI quốc gia là hạ tầng chiến lược, được phát triển theo mô hình thống nhất - mở - an toàn, khuyến khích hợp tác công tư và sự tham gia của doanh nghiệp, viện trường, tổ chức xã hội.
Nhà nước giữ vai trò định hướng, điều phối và bảo đảm năng lực hạ tầng phục vụ phát triển AI quốc gia; khuyến khích doanh nghiệp, viện nghiên cứu, trường đại học và tổ chức xã hội đầu tư, xây dựng và chia sẻ hạ tầng; tăng cường hợp tác công tư trong phát triển hạ tầng AI…

Luật được Quốc hội thông qua với kết quả: 429/434 đại biểu tham gia biểu quyết tán thành, chiếm 90,70%.
Với việc thông qua Luật AI, Quốc hội bổ sung thêm một nền tảng thể chế then chốt cho tiến trình chuyển đổi số quốc gia. Luật không chỉ tạo hành lang pháp lý bảo đảm phát triển an toàn, bền vững mà còn mở đường để doanh nghiệp mạnh dạn sáng tạo, thử nghiệm và cạnh tranh bằng công nghệ mới.
Luật AI có hiệu lực từ ngày 01/3/2026, đánh dấu bước tiến mới trong quản trị AI, đồng thời thể hiện rõ định hướng của Việt Nam: Phát triển mạnh mẽ nhưng phải an toàn, đổi mới nhưng phải có trách nhiệm và công nghệ phải phục vụ con người.