Mở hướng mới cho rừng măng bói ở Tây Bắc
<p style="text-align: justify;">Cây Mạy bói (Bambusa burmanica Gamble) là một trong những loài tre bản địa có giá trị cao tại khu vực Tây Bắc, đặc biệt nhờ khả năng cho măng ngon, sản lượng cao và thích hợp với điều kiện sinh thái miền núi.</p>
Mạy bói: Nguồn gen bản địa giàu tiềm năng
Cây Mạy bói phân bố chủ yếu tại các tỉnh vùng Tây Bắc như Sơn La, Điện Biên, Lai Châu, thường xuất hiện trong các đám tre tự nhiên hoặc rừng trồng hỗn giao, vừa giữ đất chống xói mòn, vừa cung cấp măng cho người dân.
Măng Mạy bói có chất lượng ngon, giòn, được đồng bào ưa chuộng để chế biến món ăn hàng ngày cũng như làm đặc sản cung cấp cho các nhà hàng, điểm du lịch. Tuy nhiên, do phần lớn diện tích hiện nay là rừng Mạy bói già cỗi, phân tán, chưa được tuyển chọn giống và thâm canh đúng mức nên năng suất măng chưa cao, sản lượng và chất lượng không ổn định qua các năm.

Măng bói phân bố chủ yếu tại các tỉnh vùng Tây Bắc.
Nhận thấy giá trị và tiềm năng đó, Trung tâm Khoa học Lâm nghiệp Tây Bắc đã chủ trì thực hiện nhiệm vụ khoa học và công nghệ cấp quốc gia "Nghiên cứu bảo tồn và phát triển nguồn gen cây Mạy bói để lấy măng tại một số tỉnh Tây Bắc" (mã số NVQG-2021/ĐT.28) giai đoạn 2021-2025, do TS. Đinh Công Trình làm chủ nhiệm. Nhiệm vụ thuộc Chương trình bảo tồn và sử dụng bền vững nguồn gen đến năm 2025, định hướng đến năm 2030, nhằm bảo tồn nguồn gen bản địa quý mà còn xây dựng cơ sở khoa học và mô hình thực tiễn để phát triển rừng Mạy bói lấy măng.
Theo báo cáo tự đánh giá nhiệm vụ, nhóm nghiên cứu đã thực hiện một cách khá toàn diện việc bổ sung thông tin khoa học về đặc điểm lâm học, sinh học, giá trị nguồn gen và đa dạng di truyền của loài Mạy bói.
Lần đầu tiên tại Việt Nam, nguồn gen Mạy bói được đánh giá đa dạng di truyền bằng chỉ thị phân tử, mở ra hướng tiếp cận hiện đại trong tuyển chọn giống tre bản địa. Kết quả này giúp xác định được mức độ phong phú, khác biệt di truyền giữa các quần thể, từ đó lựa chọn được các dòng, bụi ưu tú phục vụ bảo tồn và gây trồng.
Trên cơ sở điều tra, nghiên cứu tại nhiều khu vực phân bố, nhóm nghiên cứu đã tuyển chọn được 100 bụi cây mẹ Mạy bói có năng suất măng cao, vượt tối thiểu 15% so với trung bình quần thể. Những bụi cây mẹ này trở thành nguồn vật liệu giống đầu dòng quan trọng, phục vụ công tác nhân giống và phát triển rừng trồng Mạy bói lấy măng tại ba tỉnh vùng Tây Bắc.
Cùng với đó, đề tài đã xây dựng được 2 ha vườn sưu tập giống tại hai tỉnh, đóng vai trò như "ngân hàng nguồn gen sống", vừa lưu giữ, vừa làm nơi cung cấp vật liệu nghiên cứu, nhân giống trong tương lai.
Từ nguồn gen bản địa đến mô hình rừng tre lấy măng bói
Ở phương diện sản xuất, nhiệm vụ đã xây dựng 10 ha mô hình trồng thâm canh Mạy bói tại hai tỉnh, với tỷ lệ sống đạt từ 85% trở lên.
Kết quả theo dõi cho thấy năng suất măng tại các mô hình này tăng trên 15% so với đối chứng, khẳng định hiệu quả của các biện pháp kỹ thuật được áp dụng. Đồng thời, 6 ha mô hình phục tráng rừng Mạy bói (quy đông đặc) cũng được thiết lập, giúp phục hồi những lô Mạy bói đã bị suy giảm chất lượng, trong đó năng suất măng tăng trên 20% so với đối chứng.
Những mô hình này không chỉ là nơi thử nghiệm kỹ thuật, mà còn là điểm trình diễn để người dân địa phương tới tham quan, học tập.
Một kết quả quan trọng khác là đề tài đã xây dựng và được ban hành ba hướng dẫn kỹ thuật hoàn chỉnh, bao gồm: Hướng dẫn kỹ thuật nhân giống Mạy bói, hướng dẫn kỹ thuật trồng thâm canh Mạy bói lấy măng và hướng dẫn kỹ thuật khai thác, sơ chế, bảo quản măng Mạy bói.
Các bộ tài liệu hướng dẫn được thiết kế phù hợp với điều kiện sản xuất của hộ gia đình, các đơn vị sản xuất giống, cơ sở trồng tre và các cơ sở đào tạo ở khu vực miền núi phía Bắc, dự kiến sẽ được chuyển giao và ứng dụng rộng rãi từ năm 2025.

Măng bói mở ra hướng kinh tế mới có người dân Tây Bắc.
Về mặt kinh tế, kỹ thuật nhân giống Mạy bói bằng hom gốc, hom cành và chiết cành được đánh giá là đơn giản, dễ áp dụng, giúp mở rộng cơ hội cho cả bên cung cấp giống và người trồng rừng.
Mô hình trồng thâm canh Mạy bói đã chứng minh khả năng nâng cao giá trị rừng trồng tre, khi năng suất măng tăng rõ rệt so với cách trồng truyền thống. Điều này góp phần tăng thu nhập cho các hộ tham gia mô hình, đồng thời tạo động lực để mở rộng diện tích trồng Mạy bói theo hướng hàng hóa.
Về hiệu quả xã hội, nhiệm vụ đã tổ chức tập huấn, trang bị kiến thức kỹ thuật mới cho 90 cán bộ kỹ thuật, cán bộ khuyến nông và nông dân tại các tỉnh Sơn La, Điện Biên và Lai Châu.
Nội dung tập huấn bao gồm toàn bộ chuỗi kỹ thuật từ nhân giống, trồng thâm canh, khai thác đến bảo quản, sơ chế măng Mạy bói, giúp người dân nắm bắt được quy trình sản xuất hiện đại, có cơ sở để phát triển rừng tre lấy măng một cách hiệu quả. Bên cạnh đó, quá trình xây dựng và chăm sóc các mô hình trồng thâm canh và vườn tập hợp giống đã thu hút một lực lượng lao động đáng kể tại địa phương, góp phần tạo việc làm và tăng thu nhập cho người dân vùng dự án.
Đề tài cũng đã hoàn thành đầy đủ các báo cáo khoa học, trong đó có báo cáo đặc điểm lâm học - sinh học và báo cáo về giá trị nguồn gen, đa dạng di truyền loài Mạy bói, cùng hai bài báo khoa học đã được đăng tải trên tạp chí chuyên ngành. Một nghiên cứu sinh thạc sĩ tham gia nhiệm vụ dự kiến bảo vệ vào tháng 12/2025, cho thấy nhiệm vụ còn đóng góp trực tiếp cho công tác đào tạo nguồn nhân lực khoa học trong lĩnh vực lâm nghiệp.
Từ những kết quả nghiên cứu bước đầu, có thể thấy cây Mạy bói không chỉ được bảo tồn về mặt nguồn gen mà còn được đặt vào một chiến lược phát triển mới: Từ việc lựa chọn bụi cây mẹ, xây dựng vườn sưu tập, nhân giống, gây trồng thâm canh đến khai thác, sơ chế và bảo quản măng theo quy trình khoa học.
Khi các mô hình được nhân rộng, Mạy bói hoàn toàn có thể trở thành đối tượng rừng trồng tre lấy măng chủ lực ở một số tỉnh Tây Bắc, góp phần tăng giá trị rừng tre, cải thiện sinh kế và bảo vệ môi trường sinh thái vùng núi. Đây cũng là mục tiêu quan trọng của Chương trình bảo tồn và sử dụng bền vững nguồn gen cấp quốc gia: Biến những giá trị bản địa thành động lực phát triển mới cho kinh tế lâm nghiệp và nông nghiệp vùng cao.