Nghiên cứu ứng dụng động lực thúc đẩy, đồng hành cùng hành trình 80 năm Bưu chính và Viễn thông, Khoa học và Công nghệ

<p style="text-align: justify;">Trên hành trình 80 năm xây dựng và phát triển của ngành Bưu chính và Viễn thông, Khoa học và Công nghệ, nghiên cứu ứng dụng ngày càng khẳng định vai trò cầu nối hiệu quả giữa tri thức khoa học và đời sống thực tiễn. Với sứ mệnh tài trợ chiến lược, Quỹ Phát triển Khoa học và Công nghệ Quốc gia (Nafosted) không ngừng thúc đẩy quá trình chuyển hóa từ ý tưởng nghiên cứu sang các sản phẩm công nghệ cụ thể, đóng góp thiết thực vào phát triển kinh tế - xã hội và tiến trình chuyển đổi số quốc gia.</p>

Nhân dịp kỷ niệm 80 năm xây dựng và phát triển của ngành, phóng viên đã có cuộc trao đổi với NGND.GS.TS. Nguyễn Đức Chiến, Chủ tịch Hội đồng Khoa học Khoa học Tự nhiên, Kỹ thuật và Công nghệ của Quỹ Nafosted (nhiệm kỳ 2020-2022 và 2022-2024) về những kết quả nổi bật, thách thức cũng như định hướng trọng tâm trong thời gian tới.

Nghiên cứu ứng dụng động lực thúc đẩy, đồng hành cùng hành trình 80 năm Bưu chính và Viễn thông, Khoa học và Công nghệ - Ảnh 1.

NGND.GS.TS. Nguyễn Đức Chiến trả lời phỏng vấn tại Bộ Khoa học và Công nghệ.

- Xin Giáo sư cho biết tổng quan hoạt động của Hội đồng khoa học nghiên cứu ứng dụng trong hai nhiệm kỳ 2020-2022 và 2022-2024?

- NGND.GS.TS. Nguyễn Đức Chiến: Hội đồng khoa học nghiên cứu ứng dụng của Quỹ được thành lập với 9 thành viên, bao quát nhiều lĩnh vực như khoa học máy tính, vật lý, hóa học, khoa học trái đất và môi trường, kỹ thuật và công nghệ, khoa học vật liệu, cùng một thành viên chuyên ngành luật và sở hữu trí tuệ. Dù phạm vi chuyên môn của các thành viên đã tương đối rộng, song vẫn có những đề xuất nghiên cứu thuộc lĩnh vực hẹp, vượt ngoài khả năng chuyên môn trực tiếp của Hội đồng. Do đó, mỗi hồ sơ đều phải có từ hai đến ba phản biện độc lập để bảo đảm tính khách quan và chất lượng thẩm định.

Trong hai nhiệm kỳ, Hội đồng đã xem xét gần 400 đề xuất, lựa chọn tài trợ hơn 80 đề tài nghiên cứu ứng dụng, trong đó trên 50 đề tài thuộc lĩnh vực khoa học tự nhiên, kỹ thuật và công nghệ. Đáng chú ý, trung bình mỗi đề tài đã tạo ra một tới hai sản phẩm sở hữu trí tuệ, bao gồm bằng độc quyền sáng chế và giải pháp hữu ích. Đây là minh chứng rõ nét cho định hướng đúng đắn của Quỹ: Lấy tri thức khoa học làm nền tảng, nhưng sản phẩm cuối cùng phải là công nghệ, sáng chế có khả năng ứng dụng vào đời sống.

- Những kết quả đó có ý nghĩa như thế nào đối với hành trình xây dựng và phát triển ngành Bưu chính và Viễn thông, Khoa học và Công nghệ , đặc biệt trong bối cảnh Đại hội Thi đua Yêu nước lần thứ I, thưa Giáo sư?

NGND.GS.TS. Nguyễn Đức Chiến: Nghiên cứu ứng dụng do Quỹ tài trợ đã mang lại ba tác động nổi bật.

Thứ nhất, thúc đẩy chuyển dịch từ nghiên cứu hàn lâm sang giải pháp công nghệ gắn trực tiếp với yêu cầu của thực tiễn, hỗ trợ hiệu quả cho các lĩnh vực then chốt như chuyển đổi số, trí tuệ nhân tạo, năng lượng sạch, an toàn thông tin.

Thứ hai, hình thành cơ chế kết nối giữa nhà khoa học - doanh nghiệp - địa phương - cơ quan quản lý, từ đó đưa các sản phẩm nghiên cứu đến với bệnh viện, trang trại, nhà máy, đô thị, góp phần nâng cao năng suất, tiết kiệm chi phí và tăng sức cạnh tranh quốc gia.

Thứ ba, tạo động lực lan tỏa phong trào thi đua trong khoa học, khi tiêu chí đánh giá không chỉ dừng lại ở số lượng đề tài mà được đo bằng hiệu quả ứng dụng, giá trị thương mại hóa và mức đóng góp vào mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội. Đây cũng là tinh thần mà Đại hội Thi đua Yêu nước lần thứ I hướng tới: thi đua bằng chất lượng và giá trị thực tiễn.

- Xin Giáo sư chia sẻ một số đề tài tiêu biểu được tài trợ trong thời gian qua?

NGND.GS.TS. Nguyễn Đức Chiến: Có thể nhắc đến đề tài nghiên cứu và chế tạo thiết bị phục hồi chức năng điều trị vôi hóa cột sống và hỗ trợ liền vết thương, do TS. Tống Quang Công, Viện Khoa học Vật liệu, Viện Hàn lâm Khoa học và Công nghệ Việt Nam chủ trì. Thiết bị này kết hợp các nguyên lý vật lý trị liệu hiện đại với tri thức y học cổ truyền, đặc biệt ứng dụng cửa sổ quang sinh học (600-980 nm), mang lại hiệu quả phục hồi mô tổn thương và giảm viêm.

Điểm đáng chú ý là nhóm nghiên cứu đã chuyển hóa các lý thuyết phức tạp thành thiết bị thực tiễn, dễ sử dụng, phù hợp với nhiều đối tượng từ người cao tuổi, bệnh nhân thoái hóa cột sống, người lao động phổ thông đến người phục hồi sau phẫu thuật. Thiết bị được thiết kế theo hướng "cá nhân hóa" và "tại gia", cho phép người bệnh tự chăm sóc tại nhà, góp phần giảm tải hệ thống y tế. Các sản phẩm có cấu trúc đơn giản, chi phí thấp, có thể sản xuất hàng loạt và dễ dàng chuyển giao cho doanh nghiệp trong lĩnh vực thiết bị y tế và chăm sóc sức khỏe.

Tác động xã hội của đề tài cũng rất rõ rệt: Nâng cao chất lượng cuộc sống, giảm chi phí điều trị, hạn chế rủi ro do lạm dụng thuốc, đồng thời thúc đẩy phát triển y tế cộng đồng và kinh tế xanh nhờ việc sử dụng dược liệu bản địa. Có thể nói, đây là một bước tiến quan trọng trong hướng phát triển thiết bị y tế "made in VietNam", vừa phục vụ nhu cầu trong nước, vừa có tiềm năng vươn ra thị trường quốc tế.

Một ví dụ khác là đề tài phát triển mô-đun phát điện hòa lưới công suất nhỏ từ chất thải sinh hoạt và sản xuất ở nông thôn, do GS.TS. Bùi Văn Ga chủ trì. Kết quả nghiên cứu góp phần giải quyết bài toán năng lượng và môi trường, thúc đẩy kinh tế tuần hoàn tại khu vực nông thôn. Những sản phẩm này không chỉ có ý nghĩa khoa học mà còn khẳng định tính ứng dụng thực tiễn, tạo tác động lan tỏa đối với đời sống kinh tế - xã hội.

- Bên cạnh những kết quả đạt được, hoạt động nghiên cứu ứng dụng hiện đang đối mặt với những khó khăn gì?

NGND.GS.TS. Nguyễn Đức Chiến: Thách thức lớn nhất là sự đa dạng và chuyên sâu của các lĩnh vực nghiên cứu, đòi hỏi cơ chế phản biện rộng mở và sự tham gia của nhiều chuyên gia bên ngoài Hội đồng. Ngoài ra, thời gian xét duyệt và cấp bằng sở hữu trí tuệ còn kéo dài, trung bình ba đến bốn năm, có khi đến năm năm, trong khi thời gian thực hiện đề tài thường chỉ hai đến ba năm. Điều này ảnh hưởng tới việc ghi nhận và thương mại hóa sản phẩm nghiên cứu ứng dụng. Đây là vấn đề cần được cải thiện để khuyến khích các nhà khoa học mạnh dạn theo đuổi nghiên cứu có tính ứng dụng cao.

- Theo Giáo sư, định hướng tài trợ nghiên cứu ứng dụng trong giai đoạn tới cần tập trung vào những điểm nào?

- NGND.GS.TS Nguyễn Đức Chiến: Trước hết, cần xác định rõ ràng phạm vi và mục tiêu của nghiên cứu ứng dụng, bảo đảm sản phẩm đầu ra gắn với sáng chế, giải pháp hữu ích hoặc mô hình, quy trình công nghệ cụ thể. Bên cạnh đó, cơ chế tài trợ cần linh hoạt hơn, không áp trần cứng về kinh phí mà tùy theo quy mô, mức độ khả thi và tác động dự kiến của từng đề tài.

Đặc biệt, cần đẩy nhanh quy trình xét duyệt và cấp bằng sáng chế, xây dựng cơ chế "ưu tiên nhanh" cho kết quả nghiên cứu từ các đề tài do Quỹ tài trợ. Đồng thời, khuyến khích sự liên thông giữa nghiên cứu cơ bản - nghiên cứu ứng dụng - triển khai, để tri thức khoa học được chuyển hóa thành sản phẩm phục vụ phát triển đất nước.

- Trong không khí kỷ niệm 80 năm xây dựng và phát triển ngành Bưu chính và Viễn thông - Khoa học và Công nghệ, xin Giáo sư gửi gắm thông điệp gì tới thế hệ các nhà khoa học trẻ hôm nay, để họ tiếp nối truyền thống 80 năm của ngành, dấn thân vào nghiên cứu ứng dụng và đổi mới sáng tạo, phụng sự Tổ quốc trong giai đoạn tới?

- NGND.GS.TS. Nguyễn Đức Chiến: Trong suốt 80 năm qua, ngành Bưu chính và Viễn thông - Khoa học và Công nghệ đã chứng minh sức mạnh của tri thức và tinh thần đổi mới sáng tạo, góp phần to lớn vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Thế hệ chúng tôi luôn tự hào vì đã được sống, nghiên cứu và cống hiến trong dòng chảy lịch sử đó.

Với thế hệ trẻ hôm nay, tôi mong các bạn hãy nuôi dưỡng khát vọng lớn, dấn thân mạnh mẽ vào nghiên cứu ứng dụng, bởi đây chính là con đường ngắn nhất để khoa học đi vào đời sống, tạo ra những sản phẩm, công nghệ có giá trị thực tiễn, nâng cao năng suất lao động và năng lực cạnh tranh quốc gia.

Hãy không ngừng học hỏi, rèn luyện phẩm chất trung thực, khách quan, kiên trì theo đuổi mục tiêu khoa học; đồng thời biết gắn kết nghiên cứu với yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Mỗi công trình, mỗi phát minh dù nhỏ bé nhưng được ứng dụng thành công, đều là đóng góp thiết thực vào hành trình phát triển của dân tộc.

Tôi tin rằng, thế hệ các nhà khoa học trẻ sẽ tiếp bước xứng đáng truyền thống 80 năm của ngành, biến khát vọng thành hành động, đưa khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số trở thành động lực chủ đạo cho một Việt Nam hùng cường, thịnh vượng.

- Xin trân trọng cảm ơn Giáo sư!