Nhiều địa phương đẩy mạnh giảm nghèo dựa trên tri thức và công nghệ
<p style="text-align: justify;">Thông tin đang trở thành một nguồn lực quan trọng thúc đẩy giảm nghèo bền vững tại nhiều địa phương. Thông qua Tiểu dự án Giảm nghèo về thông tin thuộc Chương trình mục tiêu quốc gia giai đoạn 2021 – 2025, người dân ở vùng sâu, vùng xa, vùng biên giới đã tiếp cận tốt hơn tri thức, công nghệ và cơ hội sinh kế mới. Những mô hình của An Giang, Đắk Lắk và Gia Lai cho thấy tác động rõ rệt của việc thu hẹp khoảng cách số đối với quá trình giảm nghèo.</p>
Trong chuẩn nghèo đa chiều hiện nay, thiếu hụt thông tin được xếp vào nhóm chỉ số dịch vụ xã hội cơ bản. Điều này phản ánh nhu cầu cấp thiết của việc bảo đảm người dân, đặc biệt ở vùng khó khăn, không bị hạn chế trong tiếp cận các nguồn thông tin thiết yếu. Định hướng của Tiểu dự án Giảm nghèo về thông tin là tạo điều kiện cho hộ nghèo, hộ cận nghèo, hộ mới thoát nghèo và cư dân vùng khó khăn được sử dụng dịch vụ viễn thông, tiếp cận tri thức, từ đó tăng cơ hội phát triển kinh tế.
Mục tiêu của tiểu dự án gồm nâng cao năng lực hệ thống thông tin cơ sở, bảo đảm các xã vùng biên giới, xã đảo, huyện đảo có đài truyền thanh vận hành tốt và có điểm cung cấp thông tin công cộng. Đây là những hạ tầng đóng vai trò cốt lõi trong việc lan tỏa chính sách, chia sẻ kiến thức sản xuất và hỗ trợ người dân cập nhật thông tin phục vụ đời sống.
Tại nhiều tỉnh, tiểu dự án đang mang lại hiệu quả rõ nét, thể hiện qua sự thay đổi trong cách tiếp cận thông tin của cộng đồng và khả năng vận dụng tri thức vào phát triển sinh kế.

Ảnh minh họa
An Giang: Truyền thông cơ sở kết hợp chuyển đổi số
An Giang là một trong những địa phương đầu tư mạnh cho giảm nghèo về thông tin.
Theo kế hoạch, năm 2025 An Giang bố trí hơn 330 tỷ đồng cho Chương trình giảm nghèo, trong đó trên 5,7 tỷ đồng dành cho Tiểu dự án Giảm nghèo về thông tin. Tỉnh đặt mục tiêu đảm bảo tất cả xã đặc biệt khó khăn có đài truyền thanh hoạt động hiệu quả và phù hợp nhu cầu tiếp nhận thông tin của người dân.
Tỉnh đã xây dựng hệ thống cụm thông tin điện tử công cộng và đài truyền thanh ứng dụng công nghệ số ở các xã biên giới, nơi tỷ lệ hộ nghèo còn cao. Các cụm thông tin này không chỉ truyền tải chính sách mà còn cung cấp kiến thức sản xuất, thông tin thị trường và mô hình sinh kế. Nhờ đó, thông tin được truyền tới người dân một cách thực chất và có khả năng áp dụng ngay vào thực tiễn.
Tại vùng có đông đồng bào dân tộc thiểu số, Anh Giang đã triển khai nhiều hình thức truyền thông trực quan như tờ rơi song ngữ, chương trình phát thanh Khmer – Việt, bảng tin cộng đồng hay tọa đàm tại thôn ấp. Nhờ sử dụng ngôn ngữ và hình thức gần gũi, thông tin chính sách và hướng dẫn sản xuất được lan tỏa hiệu quả hơn.
An Giang cũng chú trọng nâng cao năng lực đội ngũ làm công tác truyền thông tại cơ sở. Nhiều lớp bồi dưỡng kỹ năng biên tập, phát thanh, truyền thông cộng đồng và ứng dụng công nghệ số đã được tổ chức. Các đài truyền thanh từng bước chuyển sang hệ thống kỹ thuật số với loa thông minh, cụm phát thanh di động và phần mềm điều khiển từ xa, giúp tăng độ phủ và chất lượng thông tin.
Đặc biệt, tỉnh đang triển khai hệ thống giám sát số hóa trong Tiểu dự án 2 nhằm quản lý dữ liệu hộ nghèo theo thời gian thực. Cách làm này giúp nâng cao minh bạch, tránh trùng lặp hỗ trợ và bảo đảm nguồn lực đến đúng đối tượng. Cùng với việc đầu tư mới các cụm thu phát thanh tại Tri Tôn, An Cư, Ba Chúc, Nhơn Hội và nhiều địa bàn khác, thông tin thiết yếu đang được đưa đến người dân kịp thời và đầy đủ hơn.
Đắk Lắk: Thu hẹp khoảng cách số cho cộng đồng yếu thế
Khác với An Giang tập trung nhiều vào hạ tầng truyền thông, Đắk Lắk chú trọng trang bị kỹ năng số cho người dân, đặc biệt nhóm dễ bị bỏ lại phía sau trong tiến trình chuyển đổi số.
Xã Ea Wer của huyện Buôn Đôn, được hợp nhất từ ba xã đặc biệt khó khăn trước đây, đã triển khai hàng loạt hoạt động truyền thông trong giai đoạn 2021 – 2025. Đài truyền thanh xã duy trì phát sóng thường xuyên, cung cấp thông tin về chương trình mục tiêu quốc gia, chính sách giảm nghèo, tình hình thị trường nông sản và các cảnh báo liên quan đến đời sống.
Để người dân tiếp cận thông tin thuận tiện hơn, nhiều lớp tập huấn sử dụng dịch vụ công trực tuyến, thanh toán không dùng tiền mặt, định danh điện tử, ký số cá nhân và tra cứu thủ tục hành chính đã được tổ chức. Các buổi hướng dẫn được thiết kế phù hợp với hộ nghèo, hộ cận nghèo, người lớn tuổi và đồng bào dân tộc thiểu số, những nhóm đối tượng dễ gặp rào cản khi sử dụng công nghệ.
Người dân còn được hỗ trợ sử dụng dịch vụ viễn thông công ích, giúp giảm chi phí truy cập internet ở các thôn buôn xa trung tâm. Đây là điều kiện quan trọng để thu hẹp khoảng cách số giữa miền núi và đồng bằng, giúp người dân bình đẳng hơn trong tiếp cận thông tin.
Nhờ những hỗ trợ này, nhận thức và khả năng ứng dụng công nghệ của cộng đồng đã có bước thay đổi rõ rệt. Người dân không chỉ cập nhật tin tức nhanh hơn mà còn biết khai thác dịch vụ số phục vụ đời sống và sản xuất.

Ảnh minh họa
Công nghệ số mở lối cho sinh kế mới
Trong khi An Giang và Đắk Lắk tập trung vào truyền thông cơ sở và nâng cao năng lực tiếp cận thông tin, Gia Lai lại cho thấy hiệu quả rõ rệt của việc áp dụng công nghệ số vào phát triển kinh tế hộ gia đình.
Nhiều hộ sản xuất nhỏ đã chủ động đưa sản phẩm lên các sàn thương mại điện tử, tận dụng mạng xã hội để tiếp cận người tiêu dùng và sử dụng truy xuất nguồn gốc để nâng cao uy tín hàng hóa. Tại làng Ó, chị Phạm Thị Bình khai thác các nền tảng như Shopee, TikTok Shop và Facebook để quảng bá sản phẩm bột chuối, bột đậu và trà thảo mộc. Nhờ duy trì nội dung thường xuyên và tự quay video bằng điện thoại, chị thu hút được lượng lớn người quan tâm và đơn hàng tăng đều, tạo nguồn thu ổn định.
Tại xã Trà Đa, mô hình truy xuất nguồn gốc bằng mã QR được anh Trần Quốc Tiến áp dụng để nâng cao sự minh bạch của sản phẩm Thân Coffee. Thông qua mã QR, người sử dụng có thể kiểm tra vùng trồng, quy trình chế biến và tiêu chuẩn kỹ thuật. Minh bạch thông tin giúp sản phẩm tạo được niềm tin với khách hàng, duy trì sản lượng tiêu thụ khoảng 4 tấn mỗi năm.
Những mô hình này cho thấy công nghệ số không chỉ là công cụ tiếp cận thông tin, mà còn là phương tiện để người dân mở rộng thị trường, cải thiện thu nhập và nâng cao năng lực cạnh tranh. Đây là minh chứng rõ nét cho tính hiệu quả của giảm nghèo dựa trên thông tin.
Những kết quả đạt được tại An Giang, Đắk Lắk và Gia Lai cho thấy giảm nghèo về thông tin không chỉ là phổ biến dữ liệu hay phủ sóng truyền thanh. Cốt lõi của mô hình này nằm ở việc trao quyền cho người dân quyền tiếp cận tri thức, quyền lựa chọn hướng sinh kế và quyền chủ động thay đổi cuộc sống bằng nội lực của chính mình.
Khi có đủ thông tin, người dân có thể lựa chọn phương án sản xuất hiệu quả, ứng dụng kỹ thuật phù hợp, tìm đầu ra cho sản phẩm và hạn chế rủi ro. Thông tin vì vậy trở thành nền tảng của phát triển bền vững, góp phần giúp các khu vực khó khăn thu hẹp khoảng cách với phần còn lại của đất nước.
Những mô hình đang triển khai cũng mở ra hướng tiếp cận mới trong công tác giảm nghèo, chuyển từ hỗ trợ đơn thuần sang trao năng lực. Đây sẽ là cơ sở quan trọng để các địa phương tiếp tục hoàn thiện mô hình giảm nghèo về thông tin trong giai đoạn tới, hướng tới mục tiêu giảm nghèo đa chiều một cách thực chất và bền vững./.