Những đột phá tạo nên cuộc “cách mạng số” đầu tiên của ngành Bưu chính Viễn thông
<p style="text-align: justify;">"Trước Đại hội VI, đất nước chúng ta có nhiều năm khủng hoảng trầm trọng, toàn diện, gay gắt, vô cùng khó khăn. Ngành Bưu chính Viễn thông bước ra khỏi cuộc chiến tranh với thương tích đầy mình, mạng lưới rất nhỏ bé, công nghệ lạc hậu, dịch vụ nghèo nàn, đời sống cán bộ, nhân viên khó khăn vô cùng." TS. Mai Liêm Trực, nguyên Tổng cục trưởng Tổng cục Bưu điện, nguyên Thứ trưởng Bộ Bưu chính Viễn thông nhớ lại.</p>
Táo bạo, đột phá đi thẳng lên số hóa
Theo TS. Mai Liêm Trực, câu hỏi lớn đặt ra cho các lãnh đạo ngành Bưu điện lúc đó là "làm sao phát triển ngành trong điều kiện bị bao vây, cấm vận, Nhà nước lại không có nguồn lực đầu tư?". Những năm đó, thế giới bắt đầu chuyển giao từ công nghệ analog sang số hóa, ban lãnh đạo đã bàn với nhau phải đi thẳng vào công nghệ hiện đại nhất. Đó là suy nghĩ rất táo bạo.
Vấn đề đầu tiên là tiền đâu để mua thiết bị, đây là bài toán lớn nhất sau khi "chốt" chiến lược số hóa vào năm 1987. Khi ấy, toàn bộ ngoại tệ mà toàn ngành bưu điện thu được năm 1989 là 1,7 triệu USD, chỉ đủ mua 2 tổng đài điện báo Telex cho Hà Nội và TP.HCM thì lấy tiền đâu ra mua thiết bị hàng chục triệu USD.
Ngoài ra, công nghệ bị cấm vận thì đối tác nào có thể cung cấp thiết bị? Đội ngũ cán bộ, nhân viên phần lớn từ chiến trường trở về được hơn chục năm. Vậy làm sao có thể vận hành, quản lý được? Khi ấy, chưa ai tin ngành có thể làm được, kể cả lãnh đạo Đảng, Nhà nước. Nhưng khát vọng muốn thay đổi đột phá, muốn hiện thực hóa đường lối đổi mới của Đảng đã thúc giục toàn ngành phải làm bằng được.

Tháng 7/1980 lần đầu tiên trạm thông tin vệ tinh mặt đất Hoa Sen I được đưa vào sử dụng ở nước ta, đánh dấu bước ngoặt trong việc phát triển viễn thông quốc tế của Việt Nam.
TS. Mai Liêm Trực nhớ lại: "Giải pháp đầu tiên xác định là phải mở cửa, thu hút đầu tư nước ngoài. Thăm dò nhiều đối tác thì họ lo ngại việc Việt Nam bị cấm vận. Chỉ có Chính phủ Australia nhìn nhận thực tế hơn nên họ ủng hộ Công ty OTC làm ăn với Việt Nam. Tháng 10/1988, chúng tôi chính thức ký Hợp đồng hợp tác kinh doanh (BCC) với Telstra trị giá 15 triệu USD xây dựng hai trạm thu phát vệ tinh. Đó có lẽ cũng là hợp đồng đầu tư nước ngoài lớn nhất của năm 1988. Chỉ sau 1 năm, khi thấy triển vọng thị trường rất tốt, hợp đồng chuyển sang 10 năm với giá trị gần 120 triệu USD, Việt Nam được 68%, phía Australia được 32% lợi nhuận."
Hợp đồng với các tập đoàn như Telstra, Comvik,… đã mang về hàng trăm triệu USD cho đất nước, giúp ngành mua được thiết bị hiện đại của nước ngoài, hình thành một hạ tầng viễn thông hiện đại rộng khắp, sánh vai với các nước mạnh trong khu vực.
Từ những bước khởi đầu ấy, uy tín của Việt Nam trong con mắt nhà đầu tư nước ngoài tăng lên rất cao. Những bước hợp tác thành công đã làm thay đổi cách nhìn của phương Tây với Việt Nam. Tạo được niềm tin để các nhà đầu tư khác vào Việt Nam làm ăn, thậm chí họ sợ chậm chân, mất cơ hội.
Một ý nghĩa quan trọng nữa là mở cửa, mời gọi đầu tư, giao lưu thương mại thì thông tin liên lạc phải thông suốt, như thế nhà đầu tư quốc tế mới vào Việt Nam. Vì vậy, viễn thông không chỉ phải lãnh nhiệm vụ phát triển ngành, mà còn phải "đi trước một bước". Nói như bây giờ là chuẩn bị hạ tầng mềm để thu hút đầu tư. Cho nên, không phát triển được hạ tầng viễn thông là sẽ cản trở công cuộc đổi mới.

Lắp đặt tổng đài điện thoại tự động 3000 số đầu tiên tại Hà Nội.
Từ đầu những năm 1990, ngành Bưu chính Viễn thông cũng đóng vai trò hết sức quan trọng trong việc bình thường hóa quan hệ với Hoa Kỳ. Năm 1992, Thượng viện Mỹ đã mở một buổi giải trình về bỏ cấm vận viễn thông với Việt Nam. Đến tháng 5/1992, Chính phủ Mỹ chính thức bỏ cấm vận về viễn thông, mở khóa mã 84, nối lại liên lạc giữa hai nước. Thắng lợi này đã góp phần thuận lợi cho tiến trình dỡ bỏ cấm vận kinh tế vào năm 1994 và bình thường hóa quan hệ ngoại giao Việt - Mỹ vào năm 1995. Đấy là thành công lớn nhất của "ngoại giao viễn thông" trong thời kỳ đổi mới, dùng viễn thông mở ra cánh cửa với Mỹ.
Quyết tâm đưa Internet về Việt Nam
Năm 1991, nhận thấy những ưu điểm rất lớn của Internet, lãnh đạo Ngành BCVT đã quyết tâm đưa về Việt Nam bằng được nhưng muốn đưa Internet vào Việt Nam thì phải có 3 điều kiện: Có một mạng điện thoại tự động kết nối trong nước và quốc tế; có những doanh nghiệp, đơn vị, cán bộ hiểu được công nghệ Internet để tổ chức khai thác kinh doanh cung cấp dịch vụ cho xã hội và phải được lãnh đạo cấp Đảng và Nhà nước cho phép.
Giai đoạn này, các doanh nghiệp như VDC, Viện Công nghệ thông tin, FPT cũng tham gia nghiên cứu và đạt được nhiều kết quả tốt. Việt Nam đã có một hệ thống mạng điện thoại tự động kết nối trong nước và quốc tế rộng khắp. Đây là bước chuẩn bị hết sức cần thiết.

Đại tướng Võ Nguyên Giáp tới thăm hệ thống máy chủ Internet đầu tiên tại Việt Nam của công ty VDC - công ty trực thuộc VNPT.
Tháng 3/1997, Thủ tướng đã ký quyết định thành lập Ủy ban Điều phối quốc gia mạng Internet. Lúc ấy, Thủ tướng Chính phủ Phan Văn Khải đã dặn dò lãnh đạo Ngành cố gắng quản lý Internet cho tốt, nếu mở ra mà phải đóng lại, thì không biết phải ăn nói với thế giới thế nào. Đây là trách nhiệm vô cùng nặng nề.
Ngày 19/11/1997, Việt Nam chính thức kết nối với Internet toàn cầu. Thời kỳ đầu, hạ tầng Internet tại Việt Nam chỉ có tốc độ 64 Kb/s, kết nối quốc tế giới hạn qua Hoa Kỳ và Australia, phục vụ khoảng 300 người dùng. Dịch vụ dial-up thời đó chỉ cho phép truy cập mạng khi đường dây điện thoại bị tạm ngắt khiến việc sử dụng Internet gặp nhiều bất tiện.
Tuy nhiên, với những thay đổi trong chính sách và nhu cầu hội nhập quốc tế, Internet tại Việt Nam đã có những bước nhảy vọt. Nếu như, năm 1997 mới chỉ có hơn 200.000 người Việt sử dụng Internet thì đến năm 2007, con số này đã tăng lên gần 20 triệu người, chiếm khoảng 24% dân số. Đến nay, hạ tầng Internet ngày càng hiện đại, tốc độ nhanh, bảo mật cao, đáp ứng tốt nhu cầu sử dụng, trở thành nền tảng thiết yếu cho chuyển đổi số và công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước…
Phá thế độc quyền
Năm 1995, ngành Bưu điện nhận Huân chương Sao Vàng. Ở thời điểm tự hào và vinh quang nhất, những lãnh đạo của Ngành cũng đã cảm nhận được những biểu hiện trì trệ, có tâm lý thỏa mãn, say sưa chiến thắng.
Việc phá bỏ độc quyền viễn thông ở Việt Nam thành công có ảnh hưởng rất lớn từ tư duy của cố Thủ tướng Võ Văn Kiệt. Từ năm 1995, Thủ tướng Võ Văn Kiệt là người sớm có tư duy mở cửa thị trường viễn thông, xóa bỏ độc quyền bằng việc định hướng nên chúng ta đã có thêm một vài công ty viễn thông khác.

Thứ trưởng Bộ Bưu chính Viễn thông Mai Liêm Trực trong chuyến thăm Viettel.
Năm 1997, Tổng cục Bưu điện đã quyết tâm mở cửa thị trường. Chỉ trong một ngày, 4 nhà khai thác Internet là VDC, FPT, NetNam, Saigonnet được cấp phép và sau đó là Viettel.
Năm 1998, công nghệ VoIP mới xuất hiện. Đến ngày 3/2/2000, Tổng cục Bưu điện đã cấp phép cho Viettel mở dịch vụ VolP - điện thoại qua Internet. Đây là lần đầu tiên có điện thoại giá rẻ, cũng là lần đầu tiên, ngoài VNPT có nhà khai thác thứ hai tham gia thị trường viễn thông.
Có thể nói, sự xuất hiện của VoIP đã tạo nên một cuộc cách mạng về giá cước, mở đầu kỷ nguyên viễn thông giá rẻ cho người dân, tạo nên thời đại tích lũy vốn quan trọng của nhiều nhà cung cấp viễn thông. Sự cạnh tranh đã giúp người dân được thụ hưởng giá cước rẻ, chất lượng dịch vụ tốt hơn, tăng mạnh lượng người dùng. Với sự góp mặt của Viettel và Saigon Postel, ngành viễn thông Việt từ chỗ độc quyền trở nên cạnh tranh hơn, thúc đẩy sự phát triển của thị trường.
Mở cửa thị trường thành công được là nhờ các quyết định dũng cảm, dám nhận trách nhiệm, dám dấn thân của một thế hệ lãnh đạo tiên phong trong thời kỳ đổi mới. Có lẽ, sự trong sáng, vô tư và khát vọng muốn thay đổi tình cảnh khó khăn cho đất nước đã tạo ra một tinh thần đổi mới mạnh mẽ./.