Những kỳ vọng từ Luật Công nghệ cao sửa đổi

<p style="text-align: justify;">Sau hơn 15 năm thực thi, việc sửa đổi Luật Công nghệ cao được xem là bước đi tất yếu, nhằm đáp ứng yêu cầu phát triển mạnh mẽ của khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo trong bối cảnh kinh tế số và hội nhập quốc tế sâu rộng.</p>

Trụ cột cho phát triển khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo

Dự thảo Luật Công nghệ cao (sửa đổi) lần này được kỳ vọng sẽ xây dựng hành lang pháp lý minh bạch, khuyến khích đầu tư, nghiên cứu, chuyển giao và ứng dụng công nghệ cao trong mọi lĩnh vực của nền kinh tế. Qua đó, góp phần hiện thực hóa mục tiêu, tầm nhìn đến năm 2045 "Việt Nam có quy mô kinh tế số đạt tối thiểu 50% GDP; là một trong các trung tâm công nghiệp công nghệ số của khu vực và thế giới; thuộc nhóm 30 nước dẫn đầu thế giới về đổi mới sáng tạo, chuyển đổi số" như được nêu trong Nghị quyết 57-NQ/TW về đột phá phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia.

Nhiều ý kiến cho rằng, điều cần thiết ở dự thảo Luật Công nghệ cao (sửa đổi) không chỉ là tạo môi trường thuận lợi cho phát triển, chuyển giao và thương mại hóa công nghệ cao, mà còn để nuôi dưỡng nguồn nhân lực công nghệ cao, hình thành hệ sinh thái đổi mới sáng tạo.

Những kỳ vọng từ Luật Công nghệ cao sửa đổi - Ảnh 1.

Chính sách ổn định sẽ giúp Việt Nam thu hút đầu tư.

Kinh nghiệm từ nhiều quốc gia trong khu vực như Hàn Quốc, Singapore, Thái Lan hay Ấn Độ cho thấy các nước này đều khởi đầu bằng việc thu hút đầu tư từ các tập đoàn công nghệ đa quốc gia. Từ đó, họ dần hình thành năng lực nghiên cứu, học hỏi quy trình và làm chủ công nghệ cốt lõi. Theo hướng này, trong những năm gần đây, Việt Nam cũng đã thu hút được các những tập đoàn lớn trong lĩnh vực điện tử, phần mềm và bán dẫn đặt trung tâm R&D.

Những vấn đề cần xem xét

Bên cạnh những điểm tích cực và kỳ vọng, các chuyên gia về chính sách cũng không khỏi băn khoăn với một số điểm thay đổi trong dự thảo Luật Công nghệ cao (sửa đổi).

Tại dự thảo Luật Công nghệ cao (sửa đổi) lần này, cơ quan soạn thảo đề xuất bỏ cơ chế cấp Giấy chứng nhận, thay bằng hình thức DN tự đánh giá, tự xác định theo các tiêu chí quy định trong dự thảo Luật.

Đề xuất này giúp cắt giảm thủ tục hành chính cho DN nhưng có thể gây ra "tác dụng phụ".

Ông Bùi Ngọc Tuấn, Phó Tổng giám đốc Dịch vụ Tư vấn Thuế và Pháp lý Deloitte Việt Nam phân tích: "Nhà đầu tư có thể lo ngại nếu tiêu chí đánh giá không rõ ràng hoặc có sự khác biệt trong cách hiểu, cách đánh giá của cơ quan chức năng, đặc biệt là các tiêu chí xác định về công nghệ cao/sản phẩm công nghệ cao trong quá trình hậu kiểm, họ sẽ không được bảo đảm quyền lợi ưu đãi đã tính toán trong phương án đầu tư".

Cũng theo ông Tuấn, "khi Giấy chứng nhận DN công nghệ cao chỉ có thời hạn 5 năm, nhà đầu tư sẽ khó hoạch định chiến lược dài hạn, đặc biệt với các dự án có quy mô lớn, vốn đầu tư hàng tỷ USD và chu kỳ ứng dụng công nghệ dài hơn 10 - 15 năm".

Nhìn sang một số nước, việc được công nhận đi kèm với các ràng buộc tích cực, chẳng hạn như yêu cầu DN duy trì tỷ lệ đầu tư R&D, tạo việc làm chất lượng cao hoặc đóng góp cho hệ sinh thái đổi mới sáng tạo.

Mặc dù dự thảo Luật cũng đã đưa ra quy định về phân loại DN công nghệ cao, cụ thể, DN công nghệ cao mức 1 là DN công nghệ cao "có nhà đầu tư trong nước chiếm tỷ lệ phần vốn góp hoặc tỷ lệ sở hữu cổ phần trên 30%" và nhận chuyển giao công nghệ lõi ở mức "đổi mới và phát triển" theo quy định của pháp luật chuyển giao công nghệ. DN công nghệ cao mức 2 là các DN công nghệ cao còn lại.

Xét trên quy định này, hầu hết các DN FDI đang đầu tư trong lĩnh vực công nghệ cao tại Việt Nam đều không đáp ứng được bởi các DN này đều triển khai các dự án 100% vốn nước ngoài tại Việt Nam.

Nhiều DN cũng lo ngại, việc phân loại này kéo theo những ảnh hưởng đến các chính sách ưu đãi cho các nhà đầu tư. Theo quy định hiện hành, công nghệ cao là lĩnh vực được hưởng ưu đãi đầu tư ở mức cao nhất. Ví dụ về thuế TNDN, sẽ được miễn 4 năm, giảm 50% trong 9 năm tiếp theo, với mức thuế suất thuế TNDN được hưởng là 10% trong 15 năm, thậm chí ưu đãi còn cao hơn, thời hạn dài hơn, nếu là trường hợp ưu đãi đầu tư đặc biệt.

Tuy nhiên, theo dự thảo Luật Công nghệ cao (sửa đổi), mức ưu đãi này sẽ chỉ được áp dụng với DN công nghệ cao mức 1. Còn nếu là DN công nghệ cao mức 2, mức ưu đãi thuế thu nhập DN sẽ chỉ còn miễn 2 năm, giảm 50% trong 4 năm và mức thuế suất được hưởng là 15% trong 15 năm.

Thay đổi này có thể sẽ ảnh hưởng tới việc thu hút FDI của Việt Nam, trong bối cảnh cạnh tranh thu hút FDI trên toàn cầu ngày càng gay gắt.

Liệu các DN FDI hiện hữu còn tiếp tục được hưởng các chính sách ưu đãi đầu tư như lâu nay họ đang được hưởng hay không? Việc thu hút nhà đầu tư mới đã khó, việc giữ chân các nhà đầu tư cũng khó khăn không kém. Sẽ là điều vô cùng đáng tiếc nếu vì sự thiếu nhất quán trong chính sách mà Việt Nam không giữ chân được "đại bàng" công nghệ - "các DN FDI công nghệ cao đóng vai trò rất quan trọng trong quá trình hình thành và phát triển hệ sinh thái công nghệ cao tại Việt Nam. Họ không chỉ mang đến vốn đầu tư và công nghệ tiên tiến, mà còn tạo ra môi trường học hỏi, chuyển giao tri thức và lan tỏa năng lực quản trị hiện đại cho các doanh nghiệp trong nước", ông Bùi Ngọc Tuấn nhấn mạnh.

Vì vậy, việc sửa đổi Luật Công nghệ cao cũng cần cân nhắc tới chính sách thu hút và giữ chân các DN FDI công nghệ cao - những DN mang vai trò dẫn dắt, tạo cơ hội phát triển cho DN nội địa trong Kỷ nguyên vươn mình của dân tộc.