Nông nghiệp công nghệ cao: Bước chuyển mình mạnh mẽ của hợp tác xã Nghệ An

<p style="text-align: justify;">Những năm gần đây, Nghệ An đẩy mạnh phát triển nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao, coi đây là hướng đi trọng tâm để nâng cao năng suất, giá trị sản phẩm và thu nhập cho người dân. Hàng trăm hợp tác xã (HTX) trong tỉnh đã đầu tư nhà màng, hệ thống tưới thông minh, công nghệ cảm biến và truy xuất nguồn gốc, giúp giảm chi phí 20 - 30%, tăng năng suất 1,5 - 2 lần, góp phần rõ rệt vào công cuộc giảm nghèo bền vững, nhất là ở vùng khó khăn.</p>

Trước đây, nông dân miền núi Nghệ An sản xuất phần lớn phụ thuộc vào điều kiện tự nhiên, thời tiết khô hanh, đất nghèo, ít đầu tư nên năng suất thấp, hiệu quả kinh tế hạn chế. Vài năm gần đây tỉnh Nghệ An đã khẳng định rõ quyết tâm phát triển nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao. Tính đến hết năm 2023, toàn tỉnh có diện tích canh tác ứng dụng công nghệ cao trên khoảng 31.000 ha (trồng trọt hơn 30.600 ha, nuôi trồng thủy sản khoảng 462,7 ha), với giá trị sản xuất bình quân đạt trên 250 triệu đồng/ha/năm, gấp 2-3 lần so với sản xuất đại trà.

Không chỉ về số lượng diện tích, mà còn về tổ chức sản xuất và tham gia liên kết: Hiện Nghệ An có khoảng 97 HTX ứng dụng công nghệ cao; 129 HTX có sản phẩm đạt hạng sao OCOP với tổng 222 sản phẩm; có 278 HTX liên kết sản xuất gắn với tiêu thụ sản phẩm, chiếm khoảng 38,5%, cao hơn mức bình quân cả nước khoảng 20%.

Như vậy, từ nhận thức, tư duy "nông nghiệp truyền thống" đang được chuyển sang "nông nghiệp công nghệ cao, liên kết chuỗi, chuẩn hoá đầu ra". Tỉnh cũng đã ưu tiên hỗ trợ đầu tư, ví dụ khuyến khích nhà kính, hệ thống tưới nhỏ giọt, cảm biến nhiệt - ẩm, áp dụng quy trình VietGAP, và truy xuất nguồn gốc.

Việc chuyển mình này không chỉ dừng lại ở việc ứng dụng công nghệ, mà còn là thay đổi mô hình tổ chức: HTX, liên kết doanh nghiệp - nông dân, sản xuất theo chuỗi, tiêu chuẩn đầu ra. Điều này mở ra cơ hội để hợp tác xã ở vùng khó có thể tham gia vào nền sản xuất hiện đại hơn, không còn chỉ là "cày cuốc" đơn lẻ.

Nông nghiệp công nghệ cao: Bước chuyển mình mạnh mẽ của hợp tác xã Nghệ An- Ảnh 1.

Mô hình trồng rau sạch trong nhà màng.

Một trong những mô hình điển hình ở Nghệ An là Hợp tác xã Nam Anh. Hoạt động của HTX Nam Anh hiện nay không chỉ là trồng, thu hoạch, bán, mà đã tham gia vào khâu tiêu thụ: Ký hợp đồng tiêu thụ dài hạn với các chuỗi siêu thị, mở kênh giới thiệu tại du lịch cộng đồng. Việc sản phẩm đạt chuẩn OCOP và mở thị trường tới các lớp học, điểm du lịch là minh chứng rõ ràng cho bước chuyển đổi.

Mô hình như Nam Anh cho thấy: Nếu HTX mạnh dạn đầu tư, tổ chức, liên kết và khai thác công nghệ, thì vùng đồng bằng, vùng trung du Nghệ An có thể đạt được mức sản xuất cao và hiệu quả kinh tế rõ rệt.

Trong khi đồng bằng và trung du có lợi thế tương đối thuận lợi, thì vùng miền núi, vùng khó khăn như Quỳ Hợp cũng ghi nhận sự chuyển mình thông qua mô hình HTX trồng cam hữu cơ. Ví dụ gợi ý là mô hình của Hợp tác xã Hòa Sơn đã ứng dụng công nghệ sinh học xử lý sâu bệnh, dùng chế phẩm vi sinh, kết hợp truy xuất QR code; mỗi hecta cam mang lại thu nhập 300-400 triệu đồng/năm, gấp đôi so với trước.

Việc đưa công nghệ vào vùng khó như Quỳ Hợp có ý nghĩa lớn: Ngoài tăng thu nhập cho nông dân, còn tạo ra chuỗi giá trị, sản phẩm có truy xuất nguồn gốc, đáp ứng yêu cầu thị trường hiện nay. Đồng thời còn đóng vai trò tạo việc làm cho đồng bào dân tộc thiểu số, giúp họ tham gia vào mô hình sản xuất hiện đại, nâng cao thu nhập và vị thế. Mô hình cam hữu cơ ở Quỳ Hợp, nếu triển khai đúng như gợi ý, là minh chứng điển hình cho việc khoa học công nghệ "chạm tới" vùng khó, không chỉ dừng ở vùng thuận lợi.

Nông nghiệp công nghệ cao: Bước chuyển mình mạnh mẽ của hợp tác xã Nghệ An- Ảnh 2.

Trồng cam theo tiêu chuẩn VietGap ở Nghệ An.

Để phát huy hiệu quả mô hình nông nghiệp công nghệ cao tại Nghệ An, cần có các giải pháp đồng bộ sau:

Đầu tư hạ tầng phục vụ sản xuất công nghệ cao: Ví dụ đường giao thông, điện, hệ thống nước tưới, viễn thông (để hệ thống cảm biến, IoT hoạt động), nhà màng, kho bảo quản. Tỉnh cần ưu tiên cho vùng khó khăn, vùng núi, vùng ven biển có điều kiện tự nhiên khắc nghiệt.

Ưu tiên tín dụng và hỗ trợ bảo hiểm rủi ro: Công nghệ cao thường đi đôi với vốn lớn hơn và rủi ro cao hơn (thiên tai, biến đổi khí hậu). Vì vậy cần có chính sách tín dụng ưu đãi, bảo hiểm cây trồng/chan nuôi, hỗ trợ từ ngân sách để HTX đầu tư công nghệ mà không quá lo rủi ro phá sản.

Khuyến khích doanh nghiệp lớn liên kết với HTX: HTX cần doanh nghiệp chuỗi đầu tư, tiêu thụ sản phẩm, hỗ trợ kỹ thuật, công nghệ, tạo mối liên kết từ khâu giống, sản xuất, chế biến tới thị trường. Việc này sẽ giúp các HTX tại Nghệ An lớn mạnh và bền vững.

Phát triển trung tâm ươm tạo công nghệ nông nghiệp: Tỉnh nên mở rộng các trung tâm nghiên cứu, chuyển giao công nghệ nông nghiệp, đào tạo nhân lực, tư vấn kỹ thuật, đặc biệt vận dụng cho HTX vùng khó. Nâng cao năng lực cho lãnh đạo, thành viên HTX, giúp họ làm chủ công nghệ, tiếp cận thị trường, quản trị sản xuất.

Tăng cường truyền thông, nhân rộng mô hình và đánh giá hiệu quả: Các mô hình điển hình cần được quảng bá rộng rãi, nhân rộng tới nhiều vùng, từ miền núi, trung du đến ven biển. Đồng thời cần có đánh giá hiệu quả, tổng kết kinh nghiệm để rút ra bài học thực tiễn, khắc phục hạn chế.

Những HTX như Nam Anh, Hòa Sơn là minh chứng rằng công nghệ không chỉ dành cho đô thị mà có thể làm thay đổi cả những vùng đất khó. Khi người nông dân làm chủ công nghệ, họ không chỉ thoát nghèo mà còn tự tin bước vào nền kinh tế tri thức. Tỉnh Nghệ An đang đứng trước cơ hội lớn: Với điều kiện tự nhiên đa dạng, nhiều vùng khó nhưng cũng có nhiều tiềm năng, nếu phát huy tốt vai trò của khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số, liên kết sản xuất - thị trường, đầu tư hạ tầng và nhân lực, thì nông nghiệp công nghệ cao sẽ trở thành một động lực quan trọng cho phát triển kinh tế - xã hội bền vững của tỉnh.