Sinh kế mới giúp bà con đồng bào dân tộc thiểu số ở Lâm Đồng thoát nghèo

<p style="text-align: justify;">Nhiều mô hình sản xuất phù hợp điều kiện địa phương, gắn với chuyển giao kỹ thuật và ứng dụng khoa học và công nghệ (KH&CN), đang giúp đồng bào dân tộc thiểu số ở xã Quảng Khê (Lâm Đồng) ổn định sinh kế và từng bước thoát nghèo bền vững. Không chỉ hỗ trợ giống và vật tư, các chương trình giảm nghèo tại đây chú trọng hướng dẫn quy trình, kết nối tiêu thụ và khơi dậy ý chí tự chủ, mở ra hướng phát triển dài hạn cho người dân vùng sâu, vùng xa.</p>

Đa dạng hóa mô hình sản xuất, gắn với chuyển giao kỹ thuật

Tại xã Quảng Khê, việc chuyển đổi sinh kế từ sản xuất nhỏ lẻ sang các mô hình chăn nuôi mới đang mang lại những chuyển biến rõ rệt. Trước đây, do quỹ đất hạn chế, nhiều hộ chỉ dựa vào nông nghiệp truyền thống, thu nhập bấp bênh và thiếu kế hoạch sản xuất dài hạn. Mô hình nuôi dúi được triển khai cùng với tập huấn kỹ thuật chăm sóc và phòng bệnh đã mở ra hướng đi mới: Đàn dúi phát triển đều, sinh sản theo chu kỳ ổn định, cho phép người dân bán giống và con thương phẩm quanh năm. Khi hiệu quả được chứng minh ngay tại cộng đồng, các hộ mạnh dạn mở rộng quy mô, từ chỗ làm nhỏ lẻ chuyển sang sản xuất có tính toán.

Song song với đó, mô hình nuôi dê theo nhóm hộ cũng được triển khai hiệu quả. Dê giống được hỗ trợ kèm hướng dẫn trồng cỏ, xây dựng chuồng trại và kỹ thuật quản lý đàn, giúp bà con giảm rủi ro trong giai đoạn đầu. Khi đàn dê phát triển, người dân vừa có nguồn thực phẩm cho gia đình, vừa có nguồn thu từ việc bán dê thương phẩm và dê giống để quay vòng vốn. Thu nhập tăng giúp các hộ có điều kiện tái đầu tư vào cây trồng, cải thiện nhà ở và chăm lo học hành cho con trẻ. Từ những bước chuyển ban đầu, mô hình tạo dựng nền tảng thoát nghèo theo hướng bền vững.

Điểm cốt lõi làm nên thành công của các mô hình này nằm ở cách triển khai. Quảng Khê không chỉ dừng lại ở việc hỗ trợ con giống hay vật tư rồi giao cho người dân tự xoay xở, mà chú trọng chuyển giao kỹ thuật, tập huấn tại thôn, hướng dẫn trực tiếp tại chuồng trại, đồng hành trong từng giai đoạn sản xuất. Cán bộ kỹ thuật "làm mẫu, làm cùng, để người dân tự làm", đồng thời theo dõi sát quá trình thực hiện để kịp thời điều chỉnh. Khi nắm được kỹ thuật chăm sóc, phòng bệnh, hiểu chi phí đầu vào và cách dự kiến đầu ra, bà con có thể chủ động mở rộng quy mô, tự kiểm soát rủi ro và tính toán hiệu quả kinh tế theo năng lực của từng hộ.

Chính cách tiếp cận này giúp chuyển từ sinh kế mang tính hỗ trợ trước mắt sang sinh kế ổn định và bền vững, tạo nền tảng để người dân làm chủ sản xuất. Quan trọng hơn, quá trình đồng hành và hướng dẫn đã tạo ra sự thay đổi về tư duy từ chỗ trông chờ, phụ thuộc vào nguồn hỗ trợ của Nhà nước, người dân từng bước tự tin vào khả năng của mình, biết lập kế hoạch, biết tính toán và biết kết nối thị trường. Đây là sự chuyển dịch có ý nghĩa căn bản, mở ra con đường phát triển dựa trên năng lực tự chủ, thay vì phụ thuộc vào trợ cấp.

Sinh kế mới giúp bà con đồng bào dân tộc thiểu số ở Lâm Đồng thoát nghèo- Ảnh 1.

Cán bộ xã hướng dẫn bà con nuôi tằm.

Giai đoạn 2021-2025, xã Quảng Khê đã triển khai 33 mô hình phát triển sản xuất cộng đồng, thu hút hàng trăm hộ dân tham gia. Nổi bật là 15 mô hình nuôi dê, 12 mô hình trồng dâu, nuôi tằm, cùng các mô hình trồng cà phê, nuôi bò, nuôi thỏ và nuôi dúi. Sự đa dạng về mô hình tạo ra nhiều lựa chọn phù hợp với điều kiện của từng hộ: Hộ có ít đất có thể nuôi dúi, hộ có bãi chăn thả thuận lợi với nuôi dê, hộ có lao động chăm chỉ tỉ mỉ phù hợp với dâu, tằm. Điều này giúp sinh kế trở nên linh hoạt, hạn chế rủi ro phụ thuộc vào một nguồn thu duy nhất.

Điểm đáng nói là Quảng Khê không chỉ hỗ trợ con giống, cây giống hay vật tư. Các lớp tập huấn kỹ thuật được tổ chức ngay tại thôn, bản. Nội dung tập huấn bám sát thực tiễn chăm sóc cây trồng theo quy trình chuẩn, kỹ thuật quản lý dịch bệnh trong chăn nuôi, sử dụng phân hữu cơ sinh học và kỹ thuật ủ cỏ, dự trữ thức ăn trong mùa khô. Nhờ vậy, bà con không chỉ học lý thuyết mà nắm được kỹ năng thực hành, tự tin xử lý tình huống và chủ động mở rộng quy mô khi mô hình phát huy hiệu quả.

Một yếu tố quan trọng khác là việc đưa KH&CN vào sản xuất, hệ thống tưới tiết kiệm cho dâu và cà phê, ghi nhật ký chăm sóc để chuẩn hóa quy trình, và truy xuất nguồn gốc cho sản phẩm. Những công nghệ không quá phức tạp nhưng mang lại hiệu quả rõ rệt giảm chi phí nước và nhân công, nâng năng suất, đồng đều chất lượng sản phẩm và tạo điều kiện thuận lợi khi kết nối thị trường. Khi sản phẩm có nguồn gốc rõ ràng, cơ hội tham gia các chuỗi tiêu thụ lớn, bền vững hơn cũng được mở ra.

Từ những mô hình điểm ban đầu, nhận thức của người dân bắt đầu chuyển biến từ sản xuất nhỏ lẻ, dựa kinh nghiệm truyền miệng, sang sản xuất theo quy trình, có kế hoạch tái đàn, mở rộng diện tích, dự tính đầu ra và liên kết bán hàng. Việc nhìn thấy hiệu quả ngay trong cộng đồng mình sống chính là yếu tố mạnh nhất để người dân tin, làm và nhân rộng.

Có thể nói, Quảng Khê đang xây dựng sinh kế theo hướng bền vững, đa dạng hóa sản xuất, chuyển giao kỹ thuật thực chất, ứng dụng KH&CN phù hợp, tạo liên kết theo chuỗi giá trị. Đây không chỉ là hỗ trợ kinh tế trước mắt, mà là quá trình giúp người dân từng bước tự chủ sản xuất và phát triển lâu dài.

Sinh kế mới giúp bà con đồng bào dân tộc thiểu số ở Lâm Đồng thoát nghèo- Ảnh 2.

Người dân thoát nghèo nhờ mô hình nuôi dê.

Hạ tầng được cải thiện, đời sống nâng lên

Song song với phát triển sản xuất, xã Quảng Khê còn tập trung đầu tư hạ tầng thiết yếu như đường giao thông nội thôn, hệ thống nước sinh hoạt, mạng lưới điện và trường học. Hạ tầng được cải thiện giúp việc đi lại, giao thương và tiếp cận dịch vụ y tế, giáo dục của người dân thuận lợi hơn. Diện mạo nông thôn đổi mới, đời sống vật chất và tinh thần của bà con được nâng lên từng bước.

Từ ngày 1/7, xã Quảng Khê được thành lập trên cơ sở sáp nhập xã Đắk Plao và xã Quảng Khê cũ, với diện tích hơn 22.000 ha và trên 17.000 nhân khẩu; đồng bào dân tộc thiểu số chiếm gần 40%. Tỷ lệ hộ nghèo hiện vào khoảng 4,7% và hộ cận nghèo 4,1%. So với yêu cầu phát triển, công tác giảm nghèo vẫn còn không ít thách thức. Tuy vậy, cách làm gắn hỗ trợ sản xuất với chuyển giao kỹ thuật và nâng cấp hạ tầng đang cho thấy hướng đi đúng, tạo nền tảng để Quảng Khê tiếp tục nâng cao thu nhập và xây dựng sinh kế bền vững cho người dân.

Kết quả bước đầu cho thấy, hiệu quả giảm nghèo chỉ thực sự bền vững khi mô hình sản xuất được thiết kế phù hợp với điều kiện của từng hộ, từng thôn; người dân được hướng dẫn kỹ thuật một cách bài bản; và các tiến bộ KH&CN được ứng dụng đúng thời điểm và đúng khâu. Việc chuẩn hóa từ khâu chuồng trại, chọn giống, chuẩn bị nguồn thức ăn đến quy trình chăm sóc, phòng bệnh và bảo quản sản phẩm giúp giảm thiểu rủi ro, hạn chế hao hụt và đảm bảo đàn vật nuôi, cây trồng phát triển ổn định. Khi năng suất và chất lượng được nâng lên, người dân không chỉ có thêm thu nhập trước mắt, mà còn có cơ sở để xây dựng kế hoạch sản xuất dài hạn, từng bước mở rộng quy mô và tổ chức sản xuất theo hướng bài bản. Điều này giúp chuyển từ cách làm manh mún, dựa vào kinh nghiệm sang sản xuất có tính toán, có chiến lược và có liên kết thị trường.

Ở góc độ rộng hơn, giảm nghèo không chỉ dừng lại ở việc hỗ trợ để đủ sống. Điều quan trọng là trao năng lực, năng lực làm chủ kỹ thuật, năng lực tổ chức sản xuất, năng lực kết nối thị trường. Khi người dân có kiến thức và công cụ, có quy trình và có liên kết, họ có thể chủ động tạo ra thu nhập, mở rộng mô hình, tái đầu tư và nâng cao chất lượng cuộc sống. Thoát nghèo lúc này không còn phụ thuộc vào trợ cấp, mà trở thành một quá trình phát triển tự thân, vững chắc và lâu dài.

Và khi tư duy sản xuất thay đổi, sinh kế được xây dựng trên nền tảng tri thức, kỹ thuật và thị trường, thì cộng đồng không chỉ thoát nghèo, mà còn thoát khỏi nguy cơ tái nghèo, hướng tới sự ổn định bền vững. Đây chính là điểm then chốt, giảm nghèo bằng trao cơ hội và trao năng lực, chứ không chỉ hỗ trợ một lần. Từ Quảng Khê, có thể thấy rõ: Khi chính quyền đồng hành, người dân chủ động, và KH&CN được ứng dụng đúng chỗ, thì con đường phát triển của mỗi gia đình sẽ ngày càng rộng mở.