Tháo gỡ vướng mắc trong lĩnh vực KH&CN khi triển khai chính quyền địa phương hai cấp
<p style="text-align: justify;">Mô hình chính quyền địa phương hai cấp đang được các địa phương triển khai với mục tiêu phục vụ người dân, doanh nghiệp ngày càng tốt hơn. Trong tiến trình đó, lĩnh vực khoa học và công nghệ có những việc cần được tháo gỡ kịp thời để bộ máy vận hành thông suốt, đồng bộ, hiệu quả.</p>
Nhận diện những điểm nghẽn cốt lõi
Sau khi chuyển sang mô hình hai cấp, nhiều địa phương phản ánh "độ trễ" từ thể chế đến thực thi. Cấp cơ sở được giao thêm thẩm quyền nhưng thiếu hướng dẫn chi tiết, nhất là ở các khâu đầu tư, giải ngân, đấu thầu, hợp đồng dịch vụ công nghệ thông tin và quy trình chuyên ngành KH&CN. Ở những mảng đặc thù như sở hữu trí tuệ, tiêu chuẩn – đo lường – chất lượng, an toàn bức xạ, tần số vô tuyến điện, nếu không có tài liệu nghiệp vụ hoá theo mô-đun và quy trình chuẩn, cán bộ cấp huyện, cấp xã rất khó làm đúng ngay từ đầu, dẫn đến hồ sơ phải bổ sung nhiều lần, làm giảm chất lượng phục vụ người dân, doanh nghiệp.
Bên cạnh thể chế, năng lực thực thi là khâu quyết định. Không ít nơi thiếu cán bộ am hiểu đồng thời pháp luật và công nghệ; vị trí phụ trách KH&CN ở cấp xã còn kiêm nhiệm; kỹ năng số không đồng đều giữa các đơn vị. Hệ quả là quy trình số hoá có nhưng vận hành chưa mượt, chất lượng xử lý hồ sơ thiếu nhất quán, tỉ lệ giải quyết đúng hạn chưa bền vững. Áp lực công việc ở những địa bàn phát triển nhanh càng bộc lộ rõ bất cập về biên chế, mô tả vị trí việc làm và chuẩn năng lực tối thiểu cho các đầu mối KH&CN sau phân cấp.
Hạ tầng kỹ thuật và nền tảng số là điều kiện cần để mô hình hai cấp "chạy" trơn tru. Phần lớn tỉnh, thành đã kết nối mạng truyền số liệu chuyên dùng, tích hợp cổng dịch vụ công, áp dụng phần mềm một cửa điện tử đến cấp huyện, thậm chí cấp xã. Tuy vậy, ở vùng sâu, vùng xa vẫn còn "lõm sóng", đường truyền không ổn định, gây gián đoạn tiếp nhận và xử lý hồ sơ trực tuyến. Kho dữ liệu dùng chung, kho tiêu chuẩn – quy chuẩn, hệ thống truy xuất nguồn gốc, giám sát đo lường, đăng ký nhãn hiệu tập thể… chưa được chuẩn hoá đồng bộ, khiến cán bộ cơ sở khó tra cứu nhanh, khó thống nhất phương án xử lý.

Một vướng mắc khác là cách đo "đầu ra". Khi phân cấp mạnh, bài toán không chỉ là đẩy nhanh "đầu vào" hồ sơ, mà còn phải định lượng tác động của KH&CN và chuyển đổi số đến năng suất, chất lượng và đời sống ở cơ sở. Nhiều địa phương đề nghị có bộ chỉ số đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số phù hợp cấp xã, cấp huyện, có phương pháp thống kê nhất quán, nguồn dữ liệu mở, công cụ đánh giá minh bạch để làm căn cứ phân bổ nguồn lực, khoán chi theo sản phẩm. Việc thiếu thước đo chuẩn làm cho báo cáo giữa các địa phương khó so sánh, gây khó trong chỉ đạo điều hành và trong khen thưởng – kỷ luật gắn với kết quả.
Thực tiễn "đi – nhìn – xử" ở một số tỉnh cho thấy, khi đoàn công tác trung ương xuống địa phương, nhiều điểm nghẽn có thể được tháo gỡ ngay: hướng dẫn trình tự, đính chính biểu mẫu, thống nhất liên thông dữ liệu, gỡ vướng khâu thẩm định – nghiệm thu – quyết toán nhiệm vụ KH&CN, kết nối nền tảng truy xuất nguồn gốc của tỉnh với cổng quốc gia, hướng dẫn bàn giao nhãn hiệu cộng đồng. Tuy nhiên, nếu các kết luận tại hiện trường không nhanh chóng được thể chế hoá thành thông tư, sổ tay nghiệp vụ và bộ công cụ dùng chung, các vướng mắc sẽ tái diễn ở những nơi khác, làm phát sinh chi phí tuân thủ và bào mòn niềm tin của người dân, doanh nghiệp.
Yêu cầu đặt ra là chuyển trọng tâm từ mở rộng thẩm quyền sang nâng năng lực thực thi. Hai trụ cột cần tập trung là chuẩn hoá quy trình – dữ liệu và chuyên nghiệp hoá nguồn nhân lực. Về quy trình – dữ liệu, phải thống nhất bước đi, thuật ngữ, biểu mẫu, thời hạn và trách nhiệm từng khâu; phải bảo đảm dữ liệu được sinh ra trong quá trình xử lý hồ sơ có cấu trúc, liên thông và khai thác được ngay cho đánh giá, thống kê. Về nhân lực, cần mô tả vị trí việc làm đủ rõ, ban hành khung năng lực tối thiểu theo từng lĩnh vực KH&CN giao cho địa phương quản lý, có chế độ đào tạo – sát hạch – cấp chứng chỉ điện tử và đánh giá định kỳ gắn với chất lượng phục vụ.
Giải pháp trọng tâm để vận hành thông suốt
Một là, hoàn thiện thể chế đúng "điểm rơi". Những nội dung đã thống nhất tại các cuộc làm việc với địa phương cần sớm được cụ thể hoá thành thông tư hướng dẫn, sổ tay nghiệp vụ và bộ câu hỏi – đáp theo tình huống. Trọng tâm là các khâu sau phân cấp: lựa chọn nhiệm vụ, thẩm định, giao quyền chủ trì, nghiệm thu, đặt hàng – khoán chi theo sản phẩm, công nhận kết quả và cơ chế chuyển giao. Với các lĩnh vực đặc thù như an toàn bức xạ, tần số vô tuyến điện, tiêu chuẩn – đo lường – chất lượng, sở hữu trí tuệ, cần mô-đun hoá quy trình, chuẩn hoá biểu mẫu, minh hoạ bằng tình huống điển hình để cán bộ tuyến xã có thể "tra cứu – thực hiện – hoàn tất" theo một đường găng thống nhất.
Hai là, gắn phân cấp với chuẩn năng lực. Cần ban hành khung năng lực bắt buộc cho các vị trí KH&CN ở cấp huyện, cấp xã, làm cơ sở tuyển dụng, bố trí, đánh giá và đào tạo. Đào tạo phải theo hướng "rộng – sâu – liên tục": Tổ chức các lớp e-learning về đo lường, sở hữu trí tuệ, an toàn bức xạ, tần số, dữ liệu – số hoá hồ sơ; xây dựng ngân hàng câu hỏi chuẩn; sát hạch định kỳ; cấp chứng chỉ điện tử tích hợp trong hồ sơ cán bộ. Những mô hình địa phương đề nghị đào tạo trực tuyến số lượng lớn cần được nhân rộng, vừa tiết kiệm chi phí, vừa rút ngắn thời gian đưa cán bộ vào guồng công việc.
Ba là, tăng cường lực lượng công nghệ thông tin cho tuyến cơ sở trong giai đoạn chuyển đổi. Có thể huy động mạng lưới chuyển đổi số cộng đồng, sinh viên thực tập, doanh nghiệp bưu chính – công nghệ tham gia hỗ trợ tại chỗ theo cơ chế đặt hàng nhiệm vụ cụ thể, có quy trình bàn giao – tiếp nhận rõ ràng. Song song, cần kế hoạch tuyển dụng, thu hút nhân lực công nghệ thông tin đủ chuẩn để đảm bảo tính bền vững khi lực lượng tăng cường rút về. Khuyến khích địa phương ký hợp đồng dịch vụ công nghệ theo hướng "as-a-service" để tránh đầu tư dàn trải, giảm chi phí bảo trì và cập nhật.

Bốn là, củng cố hạ tầng số, xử lý "lõm sóng". Rà soát, ưu tiên đầu tư hạ tầng viễn thông ở vùng sâu, vùng xa; nâng chất lượng đường truyền đến trụ sở xã, phường; hoàn thiện mạng truyền số liệu chuyên dùng, đảm bảo an toàn thông tin theo cấp độ. Danh mục dịch vụ công trực tuyến mức độ cao cần được chuẩn hoá; phần mềm một cửa phải được tối ưu về thao tác, thời gian xử lý, kết nối chặt chẽ với cổng dịch vụ công quốc gia; dữ liệu phát sinh phải được thu thập tự động, hạn chế tối đa nhập liệu lặp lại. Trung tâm điều hành đô thị thông minh ở cấp tỉnh, cấp huyện cần có bộ chỉ số giám sát tiến độ, chất lượng xử lý hồ sơ KH&CN theo thời gian thực, công khai những chỉ tiêu liên quan người dân, doanh nghiệp.
Năm là, chuẩn hoá dữ liệu và công cụ đánh giá "đầu ra". Xây dựng bộ chỉ số đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số cấp xã, cấp huyện sát với thực tiễn mô hình hai cấp, làm rõ mục tiêu, phương pháp, nguồn dữ liệu, cách tính, trách nhiệm cập nhật và tần suất công bố. Bộ chỉ số phải đo được cả chất lượng dịch vụ công của lĩnh vực KH&CN lẫn tác động đến năng suất, chất lượng, an toàn, năng lực cạnh tranh địa phương. Dữ liệu phục vụ đo lường cần được chuẩn hoá ngay từ khâu tiếp nhận, giải quyết hồ sơ để giảm chi phí thống kê, đồng thời tạo nền tảng minh bạch cho phân bổ ngân sách, đặt hàng nhiệm vụ theo kết quả.
Sáu là, hoàn thiện cơ chế tài chính "đi cùng nhiệm vụ", đặc biệt ở cấp xã. Hướng dẫn cụ thể cơ chế khoán theo sản phẩm đối với nhiệm vụ KH&CN quy mô nhỏ, tính ứng dụng cao; cho phép thuê dịch vụ công nghệ thông tin đối với các khâu cần linh hoạt và cập nhật thường xuyên; chuẩn hoá biểu mẫu dự toán – quyết toán và cơ chế nghiệm thu điện tử. Mục tiêu là loại bỏ các nút thắt về giải ngân, giảm thời gian luân chuyển hồ sơ, rút ngắn đường đi từ ý tưởng đến sản phẩm ứng dụng.
Bảy là, hình thành "bộ công cụ tác nghiệp một chạm" cho cán bộ cơ sở. Phát hành kho học liệu số tập trung gồm sổ tay, quy trình chuẩn (SOP), biểu mẫu, checklist tuân thủ và cẩm nang tình huống đối với từng mảng nghiệp vụ KH&CN; kết nối mở đến kho tiêu chuẩn – quy chuẩn quốc gia; đồng bộ chức năng tra cứu nhanh. Mỗi quy trình cần có ví dụ điển hình, các lỗi thường gặp và cách khắc phục để đảm bảo người mới có thể xử lý trọn vẹn một hồ sơ ngay từ lần đầu.
Tám là, tăng cường phối hợp dọc – ngang, "đi kiểm – làm ngay". Duy trì các đoàn công tác liên ngành "đi cùng địa phương" theo chu trình: khảo sát – chẩn đoán – can thiệp nhanh tại chỗ – thể chế hoá kết quả. Gắn trách nhiệm người đứng đầu với chỉ tiêu cải cách, chuyển đổi số, chất lượng giải quyết hồ sơ KH&CN; công khai tiến độ, tỉ lệ đúng hạn, mức độ hài lòng; đưa tiêu chí "giải quyết vướng mắc đúng hẹn" vào đánh giá thi đua. Khi trung ương và địa phương cùng vào cuộc, cùng nhìn vào dữ liệu thời gian thực, việc tháo gỡ sẽ trúng hơn, nhanh hơn và bền hơn.
Cuối cùng, cần nhấn mạnh thước đo thành công của mô hình hai cấp trong lĩnh vực KH&CN không nằm ở số lượng văn bản đã ban hành hay số hệ thống đã cài đặt, mà ở năng lực thực thi: giải quyết hồ sơ đúng – nhanh – minh bạch; bảo đảm an toàn, chất lượng; thúc đẩy sáng tạo, nâng cao năng suất, chất lượng sống ở từng xã, phường. Những tín hiệu tích cực đã xuất hiện từ tăng tỉ lệ số hoá hồ sơ, mở rộng nền tảng một cửa đến sự đồng hành sát sao của các đoàn công tác trung ương. Khi các giải pháp nêu trên được triển khai đồng bộ, đặt người dân và doanh nghiệp ở vị trí trung tâm, mô hình chính quyền địa phương hai cấp trong lĩnh vực KH&CN sẽ chuyển trạng thái từ "vận hành tạm ổn" sang "vận hành thông suốt", góp phần nâng cao hiệu lực quản trị và động lực phát triển ở từng địa bàn.