Tiêu chuẩn - Nâng cao năng suất, chất lượng cho ngành thủy sản
<p style="text-align: justify;">Trong bối cảnh các rào cản kỹ thuật, môi trường và yêu cầu giảm phát thải carbon ngày càng siết chặt trên phạm vi toàn cầu, việc áp dụng tiêu chuẩn đang trở thành yếu tố cốt lõi giúp ngành thủy sản Việt Nam duy trì tăng trưởng xuất khẩu và mở rộng thị trường.</p>
Tiêu chuẩn - Đáp ứng tiêu dùng xanh và trách nhiệm xã hội.
Theo số liệu báo cáo, năm 2024, kim ngạch xuất khẩu thủy sản đạt hơn 9,4 tỷ USD, đưa Việt Nam trở thành quốc gia xuất khẩu thủy sản lớn thứ ba thế giới. Tuy nhiên, các thị trường truyền thống như EU, Hoa Kỳ, Nhật Bản và Hàn Quốc đang áp dụng ngày càng nhiều yêu cầu liên quan đến môi trường, trách nhiệm xã hội và phát thải carbon. Đặc biệt, cơ chế điều chỉnh biên giới carbon (CBAM) của EU dự kiến mở rộng vào năm 2026, tác động trực tiếp đến ngành chế biến thủy sản Việt Nam - nhóm sản phẩm thâm dụng năng lượng và phát thải trong quá trình sản xuất.
Trong bối cảnh đó, tiêu chuẩn trở thành "ngôn ngữ chung" mà doanh nghiệp buộc phải sử dụng nếu muốn tiếp tục duy trì khả năng tiếp cận thị trường quốc tế.
Theo ông Nguyễn Hoài Nam, Tổng Thư ký Hiệp hội Chế biến và Xuất khẩu Thủy sản Việt Nam (VASEP), giá trị của một sản phẩm thủy sản chỉ được thừa nhận khi toàn bộ quá trình từ giống, vùng nuôi, thu hoạch, chế biến đến xuất khẩu đều tuân thủ các tiêu chuẩn quốc tế. Khi chuỗi cung ứng không được chuẩn hóa, doanh nghiệp dễ bị loại khỏi những thị trường đặt nặng tiêu chí xanh, truy xuất nguồn gốc và phát triển bền vững.

Lĩnh vực chế biến, được xem là điểm mạnh của thủy sản Việt Nam, hơn 95% các nhà máy quy mô lớn đã đạt các tiêu chuẩn an toàn thực phẩm.
Thực tế cho thấy, Việt Nam hiện có hơn 7.200 cơ sở sản xuất và ương dưỡng giống thủy sản, nhưng chỉ khoảng 71% được cấp giấy chứng nhận. Việc kiểm soát chưa đồng bộ dẫn đến rủi ro dịch bệnh, chất lượng không ổn định và năng suất nuôi giảm. Ngành thức ăn thủy sản cũng đang phụ thuộc hơn 80% vào nguồn nhập khẩu, khiến doanh nghiệp bị động trước biến động thị trường thế giới.
Ở cấp độ vùng nuôi, cả nước hiện có khoảng 1.300 vùng nuôi đạt VietGAP và gần 350 vùng nuôi đạt các chuẩn quốc tế như ASC, BAP. Con số này mới tương đương khoảng 25% diện tích nuôi hàng hóa, chưa đáp ứng được nhu cầu thực tiễn. Chi phí chứng nhận cao, thiếu nguồn chuyên gia tư vấn và hạn chế trong tiếp cận tín dụng xanh tiếp tục là những rào cản đối với hộ nuôi nhỏ lẻ và hợp tác xã.
Trong lĩnh vực chế biến, được xem là điểm mạnh của thủy sản Việt Nam, hơn 95% các nhà máy quy mô lớn đã đạt các tiêu chuẩn an toàn thực phẩm như HACCP, ISO 22000. Nhiều doanh nghiệp đã mở rộng sang tiêu chuẩn cao hơn như BRC, IFS, Halal hoặc chứng nhận môi trường, tuần hoàn.
Một số mô hình chế biến xanh đã tạo hiệu quả rõ rệt, như Vĩnh Hoàn tái chế phụ phẩm thành collagen, gelatin và dầu cá; Minh Phú phát triển nuôi tôm sinh thái; Sao Ta áp dụng mô hình tuần hoàn nước và tiết kiệm năng lượng. Tuy vậy, áp lực giảm phát thải CO₂, quản lý nước thải và hạn chế rác thải nhựa vẫn đặt ra yêu cầu lớn về đầu tư và đổi mới công nghệ.
Hệ thống tiêu chuẩn và quy chuẩn quốc gia tiếp tục được hoàn thiện và cập nhật theo yêu cầu mới của thị trường.
Các tiêu chuẩn như TCVN 5289:2006 về vệ sinh thủy sản đông lạnh, TCVN 13656:2023 về chất lượng nước nuôi tôm hay TCVN 13952:2024 về chất lượng nước ngọt đã tạo khung hướng dẫn quan trọng cho thực hành sản xuất. Đồng thời, các quy chuẩn môi trường như QCVN 11-MT:2015/BTNMT và QCVN 02–32–1:2019/BNNPTNT đang bảo đảm việc khai thác và nuôi trồng thủy sản gắn với bảo vệ môi trường.
Trên phạm vi quốc tế, bộ tiêu chuẩn ASC, BAP, GLOBALG.A.P. hay ISO 22000 tiếp tục đóng vai trò như "tấm hộ chiếu chất lượng" giúp sản phẩm thủy sản Việt Nam tiếp cận thị trường khó tính, đáp ứng xu hướng tiêu dùng xanh và trách nhiệm xã hội.
Chuyển đổi xanh và chuẩn hóa chuỗi giá trị
Theo Chiến lược phát triển thủy sản đến năm 2030, tầm nhìn 2045, ngành thủy sản đặt mục tiêu đạt 12–13 tỷ USD xuất khẩu; trên 80% sản phẩm có chứng nhận an toàn và bền vững; 100% vùng nuôi có mã định danh và truy xuất điện tử; giảm 15% phát thải CO₂ toàn ngành. Để hiện thực hóa các mục tiêu này, yêu cầu đặt ra là đẩy mạnh hệ thống tiêu chuẩn – quy chuẩn, đồng bộ hóa chuỗi giá trị và xây dựng hạ tầng dữ liệu phục vụ minh bạch thông tin.
Phần lớn các chuyên gia trong lĩnh vực này cho rằng, trước hết, việc hoàn thiện thể chế, cập nhật tiêu chuẩn quốc gia và hài hòa với tiêu chuẩn quốc tế là nhiệm vụ trọng tâm, đồng thời đề xuất rà soát, điều chỉnh và ban hành thêm các tiêu chuẩn liên quan đến quản lý carbon, tuần hoàn tài nguyên và truy xuất nguồn gốc; đồng thời tăng cường thừa nhận lẫn nhau giữa các hệ thống chứng nhận như VietGAP – GLOBALG.A.P – ASC nhằm giảm chi phí tuân thủ cho doanh nghiệp.
Bên cạnh đó, cần đẩy mạnh hỗ trợ doanh nghiệp trong quá trình chuyển đổi xanh. Bao gồm hỗ trợ chi phí chứng nhận, đào tạo kỹ thuật, xây dựng mô hình chuẩn hóa vùng nuôi và áp dụng các phương pháp canh tác thân thiện môi trường. Cùng với đó, việc thúc đẩy đổi mới công nghệ, đặc biệt trong xử lý nước thải, tiết kiệm năng lượng, tái chế phụ phẩm sẽ giúp doanh nghiệp củng cố vị thế trên thị trường quốc tế.

Cả nước hiện có khoảng 1.300 vùng nuôi đạt VietGAP và gần 350 vùng nuôi đạt các chuẩn quốc tế
Ngoài ra, phát triển hạ tầng dữ liệu số của chuỗi cung ứng thủy sản là yêu cầu cấp thiết. Việc xây dựng cơ sở dữ liệu quốc gia về vùng nuôi, nhà máy chế biến, chứng nhận, phát thải và xuất xứ hàng hóa sẽ giúp tăng tính minh bạch, tạo điều kiện để truy xuất điện tử tự động và nâng cao niềm tin của đối tác nhập khẩu. Điều này cũng góp phần hỗ trợ cơ quan quản lý trong giám sát chất lượng, dự báo thị trường và quản trị rủi ro.
Trong dài hạn, tiêu chuẩn không còn là rào cản mà trở thành "chìa khóa vàng" giúp thủy sản Việt Nam hội nhập bền vững. Khi người tiêu dùng toàn cầu ngày càng ưu tiên sản phẩm minh bạch, sinh thái và có trách nhiệm xã hội, việc xây dựng chuỗi cung ứng chuẩn hóa - xanh hóa - số hóa sẽ là con đường giúp thủy sản Việt Nam gia tăng giá trị, mở rộng thị trường và khẳng định vị thế trong nhóm các quốc gia xuất khẩu hàng đầu thế giới.