Tuyển chọn thành công 5 giống khoai lang bản địa ưu tú

<p style="text-align: justify;">Từ hơn 500 nguồn gen khoai lang bản địa đang lưu giữ trong Ngân hàng gen cây trồng Quốc gia, các nhà khoa học đã sàng lọc và tuyển chọn thành công 5 giống ưu tú nhất dựa trên ba tiêu chí quan trọng: Chất lượng củ, năng suất và khả năng chống chịu sâu bệnh và điều kiện bất lợi.</p>

Khoai lang vốn được xem là cây lương thực phụ, chủ yếu phục vụ nhu cầu chống đói trong quá khứ. Tuy nhiên, theo xu hướng dinh dưỡng hiện nay, khoai lang ngày càng được ưa chuộng nhờ giàu chất xơ, hỗ trợ tiêu hoá và có hàm lượng năng lượng thấp. 

Cả nước hiện có khoảng 100.000 ha khoai lang với năng suất trung bình 13 - 15 tấn/ha, sản lượng đạt 1,2 - 1,3 triệu tấn củ (năm 2024). Dù vậy, sự cạnh tranh từ các giống nhập nội, đặc biệt là giống khoai lang Nhật, đang khiến nhiều giống bản địa dần bị thu hẹp diện tích.

Nằm trong khuôn khổ Nhiệm vụ Quỹ gen Quốc gia giai đoạn 2020 - 2025, Trung tâm Tài nguyên Thực vật (Viện Khoa học Nông nghiệp Việt Nam) đã triển khai đề tài cấp Nhà nước “Đánh giá tiềm năng di truyền và phát triển nguồn gen khoai lang ở Việt Nam” do Thạc sĩ Vũ Văn Tùng làm chủ nhiệm đề tài.

img

Thạc sĩ Vũ Văn Tùng thành công tuyển chọn 5 giống khoai bản địa ưu tú.

Thạc sĩ Vũ Văn Tùng, Trưởng Bộ môn Bảo tồn In-situ và Khai thác nguồn gen (Trung tâm Tài nguyên Thực vật, Viện Khoa học Nông nghiệp Việt Nam) cho biết qua điều tra, đánh giá, Trung tâm đã phát hiện một số giống khoai lang bản địa có nhiều đặc tính quý như chất lượng tốt, khả năng chống chịu sâu bệnh và các điều kiện thời tiết bất thuận.

Từ hơn 500 giống khoai lang bản địa trong Ngân hàng gen cây trồng Quốc gia, Trung tâm đã sàng lọc ra 300 giống theo ba tiêu chí chất lượng, năng suất, khả năng chống chịu với thời tiết, sâu bệnh (bọ hà, virus gây ra bệnh xoăn lá). 300 giống này được đánh giá ngoài đồng ruộng, mỗi giống trồng diện tích 10 m2 rồi theo dõi khả năng sinh trưởng phát triển, khả năng chống chịu, chất lượng, năng suất qua 2 vụ.

Ngoài ra Trung tâm còn đánh giá trong phòng thí nghiệm về đa dạng di truyền và xác định tính kháng, chống chịu của 300 nguồn gen khoai lang địa phương bằng chỉ thị phân tử… Tổng hợp tất cả các đánh giá trên, đã chọn ra được 5 giống phù hợp với đề bài của đề tài, đầu tiên là chất lượng, thứ hai là năng suất từ khá trở lên, thứ ba là khả năng chống chịu.

img

Đào khảo sát các giống khoai lang.

Khoai lang Phổ Cường (Quảng Ngãi) có chất lượng tốt, khả năng chịu hạn và chịu mặn cao. Khoai lang bở và khoai lang ngọt Bắc Giang đều cho chất lượng ngon, trong đó giống khoai lang bở chịu úng và kháng mạnh virus xoăn lá, còn giống khoai lang ngọt có vị đậm và khả năng chống chịu khá. Nhóm giống khoai lang Dây Bầu và khoai lang Trầm Dâu trắng (Thanh Hóa) đều có chất lượng tốt, chịu mặn, chịu hạn, đặc biệt giống Trầm Dâu trắng còn kháng bọ hà rất tốt, hạn chế hiện tượng đắng củ.

Trước khi được nghiên cứu phục tráng, nhiều giống khoai lang bản địa rơi vào tình trạng thoái hóa do sâu bệnh, già hóa sinh lý hoặc canh tác chưa phù hợp, làm giảm hiệu quả kinh tế. Nhóm nghiên cứu đã áp dụng kỹ thuật nuôi cấy mô đỉnh sinh trưởng để loại bỏ virus, trẻ hóa nguồn giống và nhân nhanh quy mô lớn. Quy trình nhân giống và kỹ thuật canh tác cho từng giống cũng được hoàn thiện đồng thời với việc xây dựng mô hình trình diễn 5 ha/giống tại các địa phương.

Nhờ áp dụng đồng bộ các kỹ thuật mới, năng suất tăng khoảng 30% so với trước khi phục tráng, trong khi chất lượng được xác định cả bằng đánh giá cảm quan (luộc ăn thử) và phân tích trong phòng thí nghiệm (hàm lượng tinh bột, đặc tính thịt củ).