Việt Nam lên phương án phát triển hệ thống định vị dẫn đường quốc gia
<p style="text-align: justify;">Việt Nam đang lên phương án thay thế 2 vệ tinh viễn thông VINASAT-1 và VINASAT-2, đảm bảo năng lực viễn thông quốc gia, đồng thời có phương án phát triển hệ thống định vị dẫn đường quốc gia, giảm phụ thuộc vào GPS toàn cầu, theo chia sẻ của ông Lý Hoàng Tùng Phó Vụ trưởng Vụ Khoa học kỹ thuật và Công nghệ, Bộ Khoa học và Công nghệ.</p>
Việt Nam có khả năng thiết kế, chế tạo hệ thống vệ tinh cỡ nhỏ, UAV
Ngày 24/7, Báo Tiền Phong tổ chức toạ đàm: "Đưa công nghệ vũ trụ thành động lực phát triển mới". Ông Lý Hoàng Tùng, Phó Vụ trưởng Vụ Khoa học kỹ thuật và Công nghệ (Bộ Khoa học và Công nghệ) cho biết, phát triển công nghệ vũ trụ là yêu cầu tất yếu để bảo đảm an ninh, chủ quyền quốc gia, nâng cao năng lực nội sinh về khoa học công nghệ, thúc đẩy phát triển kinh tế – xã hội, củng cố tiềm lực quốc phòng – an ninh, khẳng định vị thế Việt Nam trong khu vực và quốc tế.
Nhận thức được tầm quan trọng của lĩnh vực này, trong thời gian qua, Đảng, Nhà nước, Chính phủ và Bộ KH&CN đã ban hành nhiều chính sách để thúc đẩy phát triển.
Cụ thể, đó là Nghị quyết số 57-NQ/TW ngày 22/12/2024 của Bộ Chính trị về đột phá phát triển KHCN, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia trong đó đã đề ra nhiệm vụ "Ban hành Chương trình phát triển công nghệ và công nghiệp chiến lược; Quỹ đầu tư phát triển công nghiệp chiến lược (ưu tiên một số các lĩnh vực khác nhau trong đó có lĩnh vực không gian vũ trụ…)" và "Ban hành các chiến lược nghiên cứu, ứng dụng khoa học, công nghệ trong khai thác, phát triển không gian vũ trụ...
Gần đây, Thủ tướng Chính phủ cũng đã ký QĐ số 1131/QĐ-TTg ngày 12/6/2025 ban hành Danh mục công nghệ chiến lược và Sản phẩm công nghệ chiến lược, trong đó công nghệ hàng không, vũ trụ nằm trong nhóm 11 công nghệ chiến lược được ưu tiên đầu tư phát triển.

Toàn cảnh tọa đàm Đưa công nghệ vũ trụ thành động lực phát triển mới.
Nhóm sản phẩm công nghệ chiến lược cũng được ưu tiên đầu tư phát triển cũng bao gồm nhiều sản phẩm trong đó có các sản phẩm thuộc lĩnh vực công nghệ vũ trụ bao gồm Vệ tinh viễn thám và viễn thông tầm thấp; Trạm mặt đất và điều khiển vệ tinh; Thiết bị bay không người lái.
Trong số 21 bài toán lớn do Bộ KH&CN công bố có 2 bài toán gồm: Nghiên cứu, sản xuất và chế tạo vệ tinh tầm thấp và Xây dựng hệ thống quản lý và giám sát tài nguyên rừng quốc gia trên nền tảng số và công nghệ viễn thám hiện đang được các nhiều tổ chức khoa học, doanh nghiệp khoa học và công nghệ quan tâm đẩy mạnh nghiên cứu và triển khai và hy vọng sớm có kết quả trong thời gian tới.
Trên thực tế, trong thời gian qua, việc làm chủ công nghệ chế tạo vệ tinh và ứng dụng công nghệ viễn thám phục vụ giám sát tài nguyên thiên nhiên đã được Đảng và Chính phủ rất quan tâm, hỗ trợ.
Việt Nam đã phát triển và vận hành một số vệ tinh nhỏ như PicoDragon (2013), MicroDragon (2019), NanoDragon (2021), và VNREDSat-1 (2013). Các dự án tương lai đang được lập kế hoạch để nâng cao khả năng quan sát và giám sát của Việt Nam.
Về hạ tầng trạm thu, điều khiển, cơ sở hạ tầng kỹ thuật phục vụ phát triển viễn thám Trái đất được đầu tư xây dựng và quản lý bởi Bộ Nông nghiệp và Môi trường và Viện Hàn lâm KH&CN Việt Nam.
Về cơ sở hạ tầng viễn thông thông qua việc đầu tư 2 vệ tinh viễn thông VINASAT-1 và 2, được phóng lên quỹ đạo lần lượt vào các năm 2008 và 2012. Đến nay, 2 vệ tinh này đã đạt nhiều mục tiêu quan trọng trong đảm bảo an ninh quốc phòng cũng như phát triển kinh tế, xã hội.
Cơ sở hạ tầng kỹ thuật phục vụ nghiên cứu khoa học và phát triển ứng dụng công nghệ vũ trụ cũng từng bước được hoàn thiện thông qua Dự án Trung tâm Vũ trụ Việt Nam, hiện đang được triển khai tại Khu CNC Hòa Lạc với 3 thành phần chính bao gồm: Xây dựng hạ tầng kỹ thuật về lĩnh vực CNVT; Chuyển giao, làm chủ công nghệ thiết kế, chế tạo vệ tinh nhỏ đến 180 kg; Đào tạo, phát triển nguồn nhân lực trình độ cao trong lĩnh vực CNVT.
Về phát triển thiết bị bay không người lái, khinh khí cầu: Trong thời gian qua, Bộ Nông nghiệp và Môi trường đã chế tạo thành công UAV và ứng dụng rộng rãi trong công tác thu thập dữ liệu tài nguyên và môi trường bao gồm thu nhận đối tượng địa lý, thành lập các bản đồ chuyên đề về lớp phủ bề mặt, biến động sử dụng đất…
Như vậy, có thể thấy Việt Nam đã hoàn toàn có khả năng thiết kế, chế tạo hệ thống vệ tinh cỡ nhỏ, UAV, khinh khí cầu,.. tuy nhiên các hệ thống này mới chỉ dừng lại ở mức đơn lẻ. Việc thương mại hóa các sản phẩm nghiên cứu vẫn là thách thức lớn đối với các nhà phát triển trong nước, đặc biệt là khả năng cạnh tranh của sản phẩm.
Thu hút chuyên gia nghiên cứu về công nghệ vũ trụ
Cụ thể, về nghiên cứu khoa học, phát triển công nghệ và ứng dụng CNVT: Bộ tiếp tục triển khai thực hiện Chương trình KH&CN cấp quốc gia về Công nghệ Vũ trụ, nhằm đưa các tiến bộ của KH&CN phục vụ cho phát triển các ngành kinh tế - xã hội, bảo đảm quốc phòng, an ninh của đất nước. Đến nay, Chương trình đã huy động được sự tham gia của đông đảo đội ngũ chuyên gia, nhà khoa học của các Bộ, ngành, địa phương, qua đó đạt được nhiều kết quả quan trọng, có tiềm năng ứng dụng ra thực tiễn, cả trong các lĩnh vực dân sinh cũng như góp phần bảo đảm quốc phòng, an ninh của đất nước.
Xây dựng cơ chế, chính sách khuyến khích chuyển giao các công nghệ, sản phẩm thuộc lĩnh vực công nghệ vũ trụ có tính lưỡng dụng giữa dân sự và quốc phòng, an ninh.
Bộ KH&CN đã và đang chủ trì, thực hiện các thủ tục đăng ký, phối hợp tần số, quỹ đạo vệ tinh với Liên minh viễn thông quốc tế (ITU) và các nước liên quan. Hướng dẫn các cơ quan, tổ chức, doanh nghiệp thực hiện các thủ tục đăng ký, phối hợp tần số, quỹ đạo vệ tinh theo quy định của Liên minh viễn thông quốc tế.
Về phát triển nguồn nhân lực và hạ tầng: Tập trung triển khai việc đào tạo các chuyên gia và các nhà khoa học trong lĩnh vực hàng không vũ trụ. Chính phủ tiếp tục đầu tư có trọng điểm Trung tâm Vũ trụ Việt Nam, nâng cấp các phòng thí nghiệm chuyên sâu. Tập trung hỗ trợ các nhóm nghiên cứu mạnh về công nghệ vũ trụ tại các viện nghiên cứu và các trường đại học.
Việt Nam cũng đang lên phương án thay thế 2 vệ tinh viễn thông VINASAT-1 và VINASAT-2, đảm bảo năng lực viễn thông quốc gia. Có phương án phát triển hệ thống định vị dẫn đường quốc gia, giảm phụ thuộc vào GPS toàn cầu. Ứng dụng khinh khí cầu và thiết bị bay tầng bình lưu để nghiên cứu khí quyển và phát triển khoa học về công nghệ vũ trụ.
"Chúng ta cũng kết nối với các tổ chức như NASA (Mỹ), JAXA (Nhật Bản), CNES (Pháp) để phối hợp nghiên cứu và nhận chuyển giao công nghệ, đồng thời khuyến khích các doanh nghiệp lớn, các doanh nghiệp khởi nghiệp và đổi mới sáng tạo tham gia vào Hệ sinh thái về công nghệ vũ trụ của Việt Nam", ông Tùng nói.