Đây là những chia sẻ của các nhà quản lý, chuyên gia, nhà khoa học tại Hội thảo "Bản sao số quốc gia - Đột phá công nghệ cho nông nghiệp thông minh vùng ĐBSCL" do Đại học Cần Thơ phối hợp cùng Tập đoàn CT Group tổ chức. Sự kiện có ý nghĩa quan trọng nhằm thúc đẩy ứng dụng công nghệ số và AI vào sản xuất nông nghiệp, mở ra những hướng đi mới cho sự phát triển kinh tế số - xã hội số bền vững của khu vực ĐBSCL.
Từ mô hình số hóa di động đến bản sao số quốc gia
Phó Trưởng ban Tuyên giáo và Dân vận Trung ương Huỳnh Thành Đạt cho rằng, bản sao số (Digital Twin) là mô hình số hóa động, phản ánh chính xác trạng thái, hành vi và hiệu suất của đối tượng thực (có thể là một cánh đồng, một trang trại, một hệ thống tưới tiêu hay thậm chí cả một vùng sản xuất…).
Dựa trên dữ liệu cảm biến, AI và phân tích dự báo, bản sao số cho phép mô phỏng, giám sát, thử nghiệm và tối ưu hóa trước khi áp dụng vào thực tế. Khi nâng tầm thành bản sao số quốc gia, đây sẽ là hệ thống dữ liệu tích hợp toàn diện, liên kết nhiều ngành: nông nghiệp, thủy lợi, giao thông, năng lượng, thương mại… Bản sao số không chỉ phục vụ quản lý sản xuất mà còn hỗ trợ ra quyết định chính sách, ứng phó biến đổi khí hậu và bảo đảm an ninh lương thực.
Chia sẻ về bản sao số quốc gia, Chủ tịch Tập đoàn CT Group Trần Kim Chung cho biết, sau thời gian nghiên cứu, Tập đoàn CT Group đã phát triển thành công bản sao số quốc gia. Đây là tập hợp của khoảng 300 nguồn dữ liệu thông tin thật khác nhau trong thời gian thật (trong đó có thông tin từ các cơ quan nhà nước), được phân thành 15 lớp.
15 lớp này được đồng bộ với nhau dựa trên các công nghệ UAV kết hợp với AI, IoT, robotics, công nghệ sinh học, Big Data và các công nghệ về năng lượng tái tạo… sau đó tạo nên được khoảng 250 ứng dụng khác nhau, có tính vượt trội cho nhiều ngành, nhiều lĩnh vực.
Riêng đối với nông nghiệp thông minh thì bản sao số quốc gia đóng góp khoảng 36 ứng dụng trong lĩnh vực nghiệp thông minh như: mô phỏng dự báo mùa vụ và năng suất; phát hiện sớm sâu bệnh; truy xuất nguồn gốc nông sản... Với ứng dụng này, nông dân có thể tiếp cận bản sao số quốc gia như một trò chơi mô phỏng về nông nghiệp thông minh và rất thú vị (ví dụ, nông dân gieo giống này hoặc giống kia, phân bón này hoặc phân bón khác trên diện tích hiện có và sẽ thu hoạch được kết quả gần như hoàn toàn chính xác ngay lập tức, không phải tốn nhiều năm trồng thử nghiệm như trước đây…).

Toàn cảnh các đại biểu tham dự Hội thảo.
Ngoài ra, bản sao số quốc gia còn có một vai trò hết sức đặc biệt giúp rút ngắn không gian, thời gian giữa người sản xuất với người tiêu dùng và nhà phân phối. Ví dụ, một bà nội trợ hoặc chủ một cửa hàng ở Mỹ có thể theo dõi được những cánh đồng lúa mà mình thường đặt hàng, sau đó có thể vào trong cánh đồng lúa online đó để xem sức khỏe của cây lúa, dự báo được chất lượng thu hoạch và các chỉ số về pháp lý sinh học mà không cần phải ở Việt Nam…
Phó Trưởng ban Tuyên giáo và Dân vận Trung ương Huỳnh Thành Đạt nhấn mạnh, bản sao số quốc gia là "trụ cột thứ ba" trong quá trình chuyển đổi số quốc gia, cũng là trụ cột khó nhất và lớn nhất. Việc chuyển đổi số quốc gia có 3 "trụ cột" lớn: chuyển đổi số về công dân, chuyển đổi số về tổ chức và chuyển đổi số về lãnh thổ. Trong đó, chuyển đổi số về lãnh thổ gồm có thành phố, nông thôn, núi đồi, đồng ruộng, sông biển và không gian... Việt Nam đang tiến bước trụ cột thứ ba này.
Đây là trụ cột về chuyển đổi số để hình thành nên các hoạt động chuyển đổi số toàn diện cho Việt Nam. Chuyển đổi số thành công, việc phát triển mạnh mẽ hạ tầng dữ liệu chuyển đổi số, tự chủ công nghệ chiến lược được coi là động lực then chốt để phát triển nhanh lực lượng sản xuất hiện đại.
Nhu cầu "số hóa" cho sản xuất nông nghiệp ở ĐBSCL
Hiệu trưởng Đại học Cần Thơ Trần Trung Tính cho biết, ĐBSCL từ lâu được ví như "vựa lúa, vựa cá, vựa trái cây" của cả nước. Nơi đây chiếm hơn 50% sản lượng lúa gạo, 65% sản lượng thủy sản và 70% sản lượng trái cây xuất khẩu của Việt Nam. Tuy nhiên, sản xuất nông nghiệp vùng ĐBSCL đang đối diện nhiều thách thức:
Một là, biến đổi khí hậu và thiên tai. Nhiệt độ tăng, hạn hán và xâm nhập mặn diễn biến khốc liệt, gây thiệt hại hàng trăm nghìn hecta lúa và hoa màu mỗi năm.
Hai là, sự suy giảm tài nguyên. Nguồn nước ngọt khan hiếm, sụt lún đất và suy thoái đa dạng sinh học ảnh hưởng nghiêm trọng đến hệ sinh thái.
Ba là, sản xuất manh mún. Quy mô hộ nông dân nhỏ lẻ, thiếu liên kết chuỗi, năng lực quản lý dữ liệu còn hạn chế.
Bốn là, áp lực thị trường. Các nước nhập khẩu ngày càng đòi hỏi truy xuất nguồn gốc, tiêu chuẩn xanh và bền vững.
Trong bối cảnh đó, chuyển đổi số và ứng dụng công nghệ mới nổi như AI, IoT, Big Data và đặc biệt là bản sao số được coi là chìa khóa để tái cơ cấu và nâng cao giá trị nông nghiệp ĐBSCL. Nếu được triển khai quy mô quốc gia, bản sao số có thể trở thành "bộ não kỹ thuật số" giúp mô phỏng, dự báo, tối ưu hóa toàn bộ quá trình sản xuất, chế biến và phân phối nông sản. Đây không chỉ là đột phá công nghệ, mà còn là bước ngoặt chiến lược để xây dựng nền sản xuất thông minh, bền vững và có khả năng cạnh tranh toàn cầu.
Hiệu trưởng Đại học Cần Thơ cho rằng, bản sao số quốc gia là ứng dụng đột phá công nghệ cho nông nghiệp thông minh vùng ĐBSCL, hứa hẹn mang đến nhiều góc nhìn mới, giải pháp sáng tạo và bước đột phá cho sự phát triển ngành nông nghiệp hiện đại. Tiềm năng của bản sao số đối với nông nghiệp ĐBSCL bao gồm: Dự báo chính xác, từ năng suất mùa vụ đến rủi ro thiên tai, dịch bệnh; quản lý thông minh, điều hành tưới tiêu, phân bón, thuốc bảo vệ thực vật theo nhu cầu thực tế; tối ưu hóa chuỗi cung ứng, từ thu hoạch đến chế biến, vận chuyển và xuất khẩu; truy xuất nguồn gốc nông sản…
Điều này sẽ làm bùng nổ nông nghiệp thông minh tại ĐBSCL trong thời gian tới, giúp giảm chi phí đầu vào, tăng năng suất; nông dân được hưởng lợi với thu nhập cao, đỡ vất vả, ít rủi ro, có thể làm giàu trên mảnh ruộng của mình, giúp chuyển đổi xanh; chính quyền có dữ liệu chính xác để quy hoạch, ứng phó thiên tai, quản lý môi trường và xây dựng thương hiệu.
Thách thức và giải pháp
Để triển khai bản sao số quốc gia cho nông nghiệp ĐBSCL, nhiều chuyên gia cho rằng, khu vực này đã và đang phải đối mặt với nhiều thách thức:
Thứ nhất, hạ tầng dữ liệu chưa đồng bộ. Cảm biến IoT, trạm quan trắc và kết nối mạng còn thiếu, phân tán và không chuẩn hóa.
Thứ hai, nguồn lực con người hạn chế. Nông dân, hợp tác xã và doanh nghiệp trong vùng đa phần là các doanh nghiệp vừa và nhỏ nên chưa quen với việc đầu tư cho đổi mới và ứng dụng công nghệ mới.
Thứ ba, chi phí đầu tư cao. Việc xây dựng hệ thống bản sao số quy mô vùng ĐBSCL đòi hỏi ngân sách lớn, cần sự tham gia của nhiều bên.
Thứ tư, việc bảo mật và chia sẻ dữ liệu. Nguy cơ rò rỉ, lạm dụng dữ liệu, cũng như khó khăn trong việc chia sẻ giữa các ngành.
Để khắc phục tình trạng trên, các chuyên gia cho rằng, trước tiên cần phải xây dựng khung pháp lý và tiêu chuẩn dữ liệu cho bản sao số quốc gia, bảo đảm tính liên thông và bảo mật; đầu tư hạ tầng số cho vùng ĐBSCL bao gồm cảm biến IoT, trạm quan trắc khí tượng, mạng 5G/6G…; Nhà nước cần hỗ trợ khung pháp lý và đầu tư hạ tầng; doanh nghiệp công nghệ phát triển nền tảng; nông dân và hợp tác xã là người sử dụng và cung cấp dữ liệu. Bên cạnh đó, việc đào tạo nguồn nhân lực số cho nông dân, cán bộ hợp tác xã, doanh nghiệp nông nghiệp trong vùng là đặc biệt cần thiết, cần thí điểm ở một số địa phương trọng điểm như Cần Thơ, An Giang…
Triển khai bản sao số quốc gia cho nông nghiệp thông minh vùng ĐBSCL không chỉ là bước tiến công nghệ, mà còn là chiến lược dài hạn bảo đảm an ninh lương thực, nâng cao năng lực cạnh tranh và thích ứng biến đổi khí hậu.
Với tầm nhìn đến năm 2030, nếu Việt Nam làm chủ công nghệ này, ĐBSCL sẽ không chỉ là "vựa lúa" của cả nước mà còn trở thành trung tâm nông nghiệp công nghệ cao, bền vững và dẫn đầu khu vực. Đây là "cú hích" để Việt Nam bước vào kỷ nguyên nông nghiệp số, đóng góp tích cực vào mục tiêu phát triển kinh tế số và xã hội số trong tương lai./.

