Bộ Khoa học và Công nghệ nhận được kiến nghị của cử tri tỉnh Vĩnh Long do Ủy ban Dân nguyện và Giám sát chuyển đến theo văn bản số 1099/UBDNGS15 ngày 29/7/2025 và Văn phòng Chính phủ chuyển đến theo văn bản số 7291/VPCP-QHĐP ngày 05/8/2025.
Nội dung kiến nghị số 1:
Ông Võ Tấn Huỳnh ý kiến trước đây Ông có ký hợp đồng với Bưu điện để bán bảo hiểm y tế (BHYT), bảo hiểm xã hội (BHXH) đến người dân, trong hợp đồng đã ký kết giữa hai bên thì không có điều khoản hoàn trả tiền hoa hồng, từ năm 2024 xã được công nhận là xã an toàn khu nên người dân được hỗ trợ BHYT. Theo đó, bên Bưu điện yêu cầu ông Võ Tấn Huỳnh phải hoàn trả phần tiền hoa hồng mà Ông đã bán được BHYT cho người dân trước đây, điều này không phù hợp và không đúng theo hợp đồng đã thỏa thuận giữa hai bên. Đề nghị Tổng công ty Bưu điện Việt Nam xem xét không yêu cầu cộng tác viên hoàn trả tiền hoa hồng đã nhận được từ việc bán BHYT cho người dân[1].
Sau khi nghiên cứu, Bộ Khoa học và Công nghệ (KH&CN) có ý kiến trả lời như sau:
Việc tổ chức dịch vụ thu có trách nhiệm hoàn trả lại phần kinh phí chi thù lao đã được nhận tương ứng với số tiền được hoàn trả trong trường hợp cơ quan Bảo hiểm xã hội (BHXH) hoàn trả tiền cho người tham gia bảo hiểm xã hội tự nguyện, bảo hiểm y tế đã được quy định tại:
- Luật Bảo hiểm xã hội số 58/2014/QH13 ngày 20/11/2014;
- Quyết định số 1155/QĐ-BHXH ngày 12/5/2022 của Tổng Giám đốc Bảo hiểm xã hội Việt Nam ban hành Quy chế quản lý hoạt động của tổ chức dịch vụ thu bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, trong đó tại Điều 5, Mục 1.4.2, Điểm đ Quyết định đã quy định rõ: "Hoàn trả kinh phí chi thù lao tương ứng trong trường hợp cơ quan BHXH hoàn trả tiền đóng BHXH tự nguyện, BHYT cho người tham gia theo quy định".
- Quyết định số 2222/QĐ-BHXH ngày 16/8/2022 của Tổng Giám đốc Bảo hiểm xã hội Việt Nam về việc ban hành mức chi thù lao cho tổ chức dịch vụ thu bảo hiểm xã hội tự nguyện, bảo hiểm y tế và các cơ sở giáo dục, trong đó tại Điều 2 Quyết định quy định: "Khi cơ quan bảo hiểm xã hội thực hiện hoàn trả tiền đóng cho người tham gia bảo hiểm xã hội tự nguyện, bảo hiểm y tế thì tổ chức dịch vụ thu có trách nhiệm hoàn trả lại phần kinh phí chi thù lao đã được nhận tương ứng với số tiền được hoàn trả."
Như vậy, trong trường hợp cơ quan BHXH hoàn trả tiền đóng cho người tham gia (xã được công nhận là xã an toàn khu, người dân được Nhà nước hỗ trợ cấp thẻ BHYT...), BHXH ban hành Quyết định về việc thu hồi kinh phí thù lao đã chi cho các tổ chức dịch vụ thu BHXH tự nguyện, BHYT kèm danh sách chi tiết để thực hiện thu hồi thù lao tương ứng từ các Đại lý/Cộng tác viên.
Bên cạnh đó, theo quy định tại Điều 3 Hợp đồng giữa Bưu điện với các Đại lý/Cộng tác viên quy định hoa hồng thù lao được hưởng của các Đại lý/Cộng tác viên căn cứ trên số tiền thu và tỷ lệ hưởng. Theo đó, khi cơ quan BHXH tiến hành hoàn trả tiền đã đóng cho người tham gia, đồng nghĩa với việc khoản tiền thu ban đầu bị giảm trừ, dẫn đến việc hoàn trả như nội dung cử tri đề cập.
Ngày 27/3/2025, Tổng công ty Bưu điện Việt Nam đã có văn bản số 1168/BĐVN-TCBC gửi Bảo hiểm xã hội Việt Nam báo cáo tình hình thực hiện Quyết định số 2222/QĐ-BHXH ngày 16/8/2022, trong đó đã kiến nghị BHXH Việt Nam không thu hồi thù lao đối với trường hợp hoàn trả tiền đóng này.
Bộ KH&CN xin tiếp thu kiến nghị của cử tri và sẽ tiếp tục phối hợp cùng các cơ quan chức năng rà soát, hoàn thiện các quy định pháp luật từ đó nâng cao chất lượng phục vụ và mang đến dịch vụ BHXH, BHYT ngày càng thuận tiện, hiệu quả hơn cho người dân.
Nội dung kiến nghị số 2:
"Kiến nghị ban hành hướng dẫn cụ thể việc định giá tài sản trí tuệ".
Sau khi nghiên cứu, Bộ KH&CN có ý kiến trả lời như sau:
Trước Kỳ họp thứ 9, Quốc hội khóa XV, Bộ KH&CN đã có văn bản trả lời số 3699/BKHCN-VP ngày 06/8/2025 trả lời cử tri tỉnh Vĩnh Long về việc ban hành hướng dẫn cụ thể việc định giá tài sản trí tuệ theo Nghị quyết số 57-NQ/TW ngày 22/12/2024 của Bộ Chính trị. Bộ KH&CN cung cấp, bổ sung thêm thông tin đối với kiến nghị nêu trên của cử tri tỉnh Vĩnh Long, cụ thể như sau:
Thời gian qua, Bộ KH&CN đã chủ động, phối hợp với các cơ quan có liên quan để xây dựng, trình cấp có thẩm quyền ban hành các văn bản liên quan đến việc hướng dẫn xác định giá trị tài sản là kết quả của nhiệm vụ KH&CN sử dụng ngân sách nhà nước. Cụ thể, việc định giá tài sản trí tuệ hiện nay được thực hiện theo Luật Giá và các văn bản hướng dẫn thi hành, có thể chia thành 2 nhóm chính, gồm:
Trường hợp đặc biệt:
- Trường hợp tài sản trí tuệ Nhà nước phải định giá:
Theo đó, đối với một số trường hợp đặc biệt theo quy định tại Danh mục hàng hóa, dịch vụ do Nhà nước định giá của Luật Giá (Phụ lục số 02, Luật Giá số 16/2023/QH15 ngày 19/6/2023), nhà nước phải định giá, gồm: (i) Tiền bản quyền khi khai thác, sử dụng tác phẩm, bản ghi âm, ghi hình trong trường hợp giới hạn quyền tác giả, giới hạn quyền liên quan theo quy định của Luật Sở hữu trí tuệ[2]; (ii) Tiền đền bù đối với quyền sử dụng sáng chế được chuyển giao theo quyết định bắt buộc của cơ quan có thẩm quyền trong trường hợp người được chuyển giao quyền sử dụng sáng chế và người nắm độc quyền sử dụng sáng chế không thỏa thuận được[3]; (iii) Tiền đền bù đối với quyền sử dụng giống cây trồng được chuyển giao theo quyết định bắt buộc của cơ quan có thẩm quyền[4].
- Trường hợp tài sản trí tuệ hình thành từ nguồn ngân sách nhà nước:
Trường hợp tài sản trí tuệ được hình thành từ nguồn ngân sách nhà nước thì việc định giá thực hiện theo Thông tư số 39/2014/TTLT-BKHCN-BTC ngày 17/12/2014 quy định việc định giá kết quả nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ, tài sản trí tuệ sử dụng ngân sách nhà nước; Thông tư số 10/2019/TT-BTC ngày 20/02/2019 hướng dẫn việc xác định giá trị tài sản là kết quả của nhiệm vụ KH&CN sử dụng vốn nhà nước.
(2) Các trường hợp khác
Cũng giống như các loại hàng hóa, dịch vụ khác, việc thẩm định giá tài sản trí tuệ phải được thực hiện theo quy định tại Luật Giá và các văn bản hướng dẫn thi hành, gồm: (i) Nghị định số 78/2024/NĐ-CP quy định chi tiết một số điều của luật giá về thẩm định giá; (ii) Thông tư 30/2024/TT-BTC ban hành các chuẩn mực thẩm định giá Việt Nam về quy tắc đạo đức nghề nghiệp thẩm định giá, phạm vi công việc thẩm định giá, cơ sở giá trị thẩm định giá, hồ sơ thẩm định giá; (iii) Thông tư 31/2024/TT-BTC ban hành chuẩn mực thẩm định giá Việt Nam về thu thập và phân tích thông tin về tài sản thẩm định giá; (iv) Thông tư 37/2024/TT-BTC ban hành chuẩn mực thẩm định giá Việt Nam về thẩm định giá tài sản vô hình, trong đó đã quy định cụ thể về các phương pháp thẩm định giá gồm phương pháp tiếp cận từ thị trường, tiếp cận từ chi phí và tiếp cận từ thu nhập đối với các tài sản vô hình. Trong đó, Điều 4 của Thông tư cũng quy định rõ tài sản vô hình bao gồm tài sản trí tuệ và quyền sở hữu trí tuệ theo quy định của pháp luật về sở hữu trí tuệ.
Để đáp ứng nhu cầu của doanh nghiệp, xã hội trong việc cần có hướng dẫn định giá tài sản trí tuệ nói chung và quyền sở hữu trí tuệ nói riêng, Bộ KH&CN (Cục Sở hữu trí tuệ) đã nghiên cứu kinh nghiệm quốc tế về các phương pháp định giá tài sản trí tuệ, lựa chọn các nội dung phù hợp cho Việt Nam, thử nghiệm xây dựng tài liệu hướng dẫn định giá tài sản trí tuệ cho ba đối tượng sáng chế, kiểu dáng công nghiệp và nhãn hiệu. Hiện nay, dự thảo tài liệu hướng dẫn nêu trên đã được gửi xin ý kiến chuyên gia và các tổ chức; dự kiến áp dụng thử nghiệm tại đơn vị có chuyên môn về định giá. Trường hợp, tài liệu hướng dẫn nêu trên được đánh giá phù hợp, khả thi, Bộ KH&CN sẽ trình cấp có thẩm quyền áp dụng rộng rãi hoặc gửi Bộ Tài chính để tham khảo, ban hành thống nhất với chuẩn mực thẩm định giá tài sản vô hình.
Bên cạnh đó, hiện nay, Bộ KH&CN đang xây dựng Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Sở hữu trí tuệ, trong đó dự kiến đề xuất bổ sung một số quy định về trách nhiệm của các cơ quan quản lý nhà nước liên quan đến việc định giá tài sản trí tuệ/quyền sở hữu trí tuệ nhằm tạo thuận lợi cho việc khai thác thương mại quyền sở hữu trí tuệ của các tổ chức, cá nhân và doanh nghiệp như hỗ trợ xây dựng nguồn lực chuyên gia định giá, các tổ chức định giá tài sản trí tuệ,…Dự án Luật dự kiến sẽ trình Quốc hội tại Kỳ họp thứ 10, Quốc hội khóa XV. Đồng thời, Bộ KH&CN cũng sẽ phối hợp với Bộ Tài chính để rà soát sửa đổi, bổ sung các quy định liên quan đến định giá tài sản trí tuệ trong hệ thống chuẩn mực định giá tài sản vô hình sau khi Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Sở hữu trí tuệ được ban hành.
Trên đây là nội dung trả lời của Bộ Khoa học và Công nghệ đối với kiến nghị của cử tri tỉnh Vĩnh Long, trân trọng gửi tới Đoàn đại biểu Quốc hội tỉnh Vĩnh Long để trả lời cử tri./.
[1] Kiến nghị số thứ tự số 10
[2] Quy định tại Phụ lục II ban hành kèm theo Nghị định số 17/2023/NĐ-CP quy định chi tiết một số điều và biện pháp thi hành Luật Sở hữu trí tuệ về quyền tác giả, quyền liên quan
[3] Quy định cụ thể tại Điều 53 Nghị định số 65/2023/NĐ-CP ngày 23/8/2023 quy định chi tiết một số điều và biện pháp thi hành Luật SHTT về sở hữu công nghiệp, bảo vệ quyền sở hữu công nghiệp, quyền đối với giống cây trồng và quản lý nhà nước về SHTT.
[4] Quy định cụ thể tại Điều 22 Nghị định số 79/2023/NĐ-CP.