
Cụ thể, về mục tiêu cụ thể, Chương trình đã đạt 3/5 và vượt 2/5 mục tiêu; về mục tiêu giai đoạn 5 năm, đạt 2/5 và vượt 3/5 mục tiêu. Trong 12 chỉ tiêu giải quyết mức độ thiếu hụt các dịch vụ xã hội cơ bản, có 4 chỉ tiêu vượt, 5 chỉ tiêu đạt và 3 chỉ tiêu chưa đạt.
Kết quả nổi bật là tỷ lệ hộ nghèo theo chuẩn nghèo đa chiều bình quân giảm 1,03%/năm, đạt yêu cầu; tỷ lệ hộ nghèo tại các huyện nghèo giảm bình quân 6,7%/năm, vượt chỉ tiêu; tỷ lệ hộ nghèo dân tộc thiểu số giảm 4,45%/năm, đạt mục tiêu đề ra. Đặc biệt, đến nay đã có 19 xã đặc biệt khó khăn vùng bãi ngang, ven biển và hải đảo thoát nghèo, đạt 35% (vượt mục tiêu 30%), cùng với 3 huyện nghèo đã được công nhận thoát nghèo, dự kiến cuối năm 2025 sẽ có thêm 19 huyện nữa hoàn thành mục tiêu.
Tổng số hộ nghèo, hộ cận nghèo đã giảm từ 2,39 triệu hộ xuống còn khoảng 1,26 triệu hộ vào cuối năm 2025, tương đương 52,49%, vượt 2,49% so với chỉ tiêu giảm một nửa số hộ nghèo, cận nghèo so với đầu kỳ. Trong lĩnh vực hạ tầng, 100% các huyện nghèo, xã đặc biệt khó khăn đã được đầu tư cơ sở hạ tầng với hơn 2.600 công trình.
Công tác hỗ trợ lao động, việc làm cũng đạt nhiều kết quả tích cực: gần 6.300 phiên giao dịch việc làm được tổ chức, hơn 23,6 triệu lao động được cập nhật thông tin gắn với Cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư; trên 130 nghìn lao động nghèo, cận nghèo được kết nối việc làm thành công, vượt chỉ tiêu tối thiểu 100 nghìn lao động.
Trong phát triển sinh kế, Chương trình triển khai trên 10.500 mô hình – vượt xa mục tiêu ban đầu là 1.000 mô hình. Công tác nâng cao năng lực cán bộ và cộng đồng cũng đạt 100% yêu cầu, với hơn 6.200 lớp tập huấn cho 730 nghìn lượt cán bộ, 1.000 đoàn học tập kinh nghiệm và gần 1.300 cuộc đối thoại chính sách.
Những kết quả trên khẳng định tính hiệu quả của Chương trình giảm nghèo bền vững, góp phần thu hẹp khoảng cách phát triển vùng miền, bảo đảm an sinh xã hội và hướng tới mục tiêu giảm nghèo đa chiều, toàn diện, bền vững.