Dấu ấn 80 năm Bưu chính - Viễn thông Việt Nam: Từ “mạch máu thông tin” đến hạ tầng số quốc gia

Chủ nhật, 28/09/2025 11:34

Hành trình 80 năm qua của ngành Bưu chính và Viễn thông Việt Nam là chặng đường lịch sử đầy gian nan, thử thách nhưng cũng vô cùng vẻ vang. Từ những đường thư, máy điện báo, những đường dây kéo tay trong khói lửa kháng chiến - “mạch máu thông tin” của cách mạng đã trở thành hạ tầng số hiện đại, kết nối toàn cầu, dẫn dắt tiến trình chuyển đổi số quốc gia. Mỗi giai đoạn đều để lại dấu ấn sâu đậm, khẳng định vai trò chiến lược của ngành trong sự nghiệp xây dựng, bảo vệ Tổ quốc và hội nhập quốc tế.

Giai đoạn 1945 - 1954: Mạch máu thông tin trong kháng chiến

Ngay sau Cách mạng Tháng Tám năm 1945, ngành Bưu điện - tiền thân của Bưu chính và Viễn thông ngày nay đã trở thành "mạch máu thông tin" của cách mạng. Những bức điện, đường thư, máy phát tín hiệu đã kịp thời truyền lệnh chiến đấu, gắn liền với những sự kiện trọng đại như "Mệnh lệnh Toàn quốc kháng chiến" năm 1946 hay hệ thống hữu tuyến điện 1.200 km phục vụ Chiến dịch Điện Biên Phủ năm 1954. Trải qua hai cuộc kháng chiến, đã có gần 10.000 cán bộ, chiến sỹ ngành Bưu điện hy sinh để giữ vững mạch máu thông tin, bảo đảm liên lạc thông suốt giữa Trung ương và tiền tuyến.

Đặc biệt, ngày 02/9/1946, Nha Bưu điện Việt Nam phát hành bộ tem bưu chính đầu tiên của nước Việt Nam độc lập theo Sắc lệnh số 172/SL ngày 27/8/1946 của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Bộ tem là biểu tượng của chủ quyền quốc gia, có giá trị lịch sử, văn hóa, nghệ thuật, đánh dấu một mốc quan trọng trong lĩnh vực tem bưu chính và của ngành Bưu điện nói chung.

img

Bộ tem bưu chính đầu tiên in chân dung Chủ tịch Hồ Chí Minh.

Trong những năm này, mạng lưới đường thư, tuyến điện báo và tổng đài được xây dựng nhanh chóng và khẩn trương. Nhiều đoạn đường dây mới được thi công, tổng chiều dài đường dây điện báo, điện thoại đã đạt con số lớn (số liệu đầu giai đoạn ghi nhận khoảng 9.144 km chiều dài đường dây). Đồng thời, hệ thống đài thu phát vô tuyến phát triển mạnh. Ở miền Nam có tới khoảng 40 đài thu phát được sử dụng để bảo đảm liên lạc với các vùng chiến sự. Hoạt động đường thư nội huyện, nội tỉnh được duy trì liên tục quanh năm, ngày đêm. Tốc độ chuyển phát đã được nâng lên rõ rệt (từ mức trung bình 30 km/ ngày lên 60 km/ngày ở nhiều nơi) và mỗi giao thông viên đã phải gồng gánh 20-30 kg công văn, tài liệu để bảo đảm mạch thông tin.

Tại các chiến dịch lớn, như Điện Biên Phủ, cán bộ ngành Bưu điện đã lập và bảo đảm các đường dây thông tin nối vào trận địa. Hệ thống hữu tuyến điện gần 1.200 km đã trở thành "xương sống" để mệnh lệnh chỉ huy kịp thời tới từng đơn vị, góp phần quan trọng vào chiến thắng "lừng lẫy năm châu, chấn động địa cầu".

Giai đoạn 1954 - 1975: Duy trì mạch thông tin Bắc - Nam trong khói lửa chống Mỹ

Sau Hiệp định Giơ-ne-vơ năm 1954, đất nước chia cắt hai miền. Ngành Bưu điện miền Bắc bước vào thời kỳ khôi phục, xây dựng, đồng thời chi viện cho chiến trường miền Nam. Trong khói lửa chiến tranh, những tuyến cáp, đường dây tải ba, mạng vi ba RVG950, BM400, BM405 trở thành xương sống của thông tin chiến lược. Đặc biệt, tuyến hữu tuyến xuyên Trường Sơn đã bảo đảm liên lạc, chỉ huy và hậu cần cho chiến trường miền Nam.

Bác Hồ ví thông tin liên lạc như "dây thần kinh, mạch máu con người", căn dặn 4 yêu cầu: "Kịp thời, chính xác, bí mật, an toàn". Đội ngũ cán bộ Bưu điện đã anh dũng hy sinh, nhiều người lấy thân mình che túi điện, nối dây bằng răng trong mưa bom bão đạn, để mệnh lệnh kịp đến chiến sĩ nơi tiền tuyến.

Cùng với nhiệm vụ bảo đảm thông tin, ngành phát triển công nghiệp thông tin liên lạc, nghiên cứu, chế tạo thành công nhiều thiết bị viễn thông quan trọng. Ngay từ năm 1956, toàn ngành đã xây dựng thêm 4.361 km đường dây, 70 tổng đài và lắp đặt 556 máy điện thoại, đưa tổng số mạng lưới thông tin điện chính phục vụ cải cách ruộng đất lên hơn 10.000 km đường dây và trên 1.500 máy điện thoại. Trong ba năm (1955-1957), ngành đã tổ chức chuyển được 748.761 bưu thiếp vào miền Nam và nhận từ miền Nam gửi ra 376.880 bưu thiếp, bảo đảm mối liên hệ tình cảm và thông tin giữa hai miền.

Năm 1962, Cơ xưởng Bưu điện Trung ương phát triển thành Nhà máy Bưu điện với 1.000 công nhân, sản xuất được tổng đài từ 5 đến 20 số, sản xuất máy thu bán dẫn 5 bóng, máy tải ba và các vật tư, trang thiết bị. Trong giai đoạn 1961-1964, các cơ sở công nghiệp đã cung cấp được gần 10.000 máy điện thoại, 2.000 tổng đài các loại, 800 máy tăng âm, 16.200 máy thu bán dẫn… Đáng chú ý, đội ngũ kỹ sư, cán bộ kỹ thuật trong ngành đã không ngừng tìm tòi, nghiên cứu, tự thiết kế và chế tạo thành công nhiều thiết bị viễn thông quan trọng, trong điều kiện thiếu thốn máy móc và công nghệ hiện đại.

Đến năm 1965, tổng chiều dài toàn mạng lưới thông tin điện chính là 19.147 km đường cột, 36.645 km đôi dây, 600 km đường cáp thông tin, kết nối từ Trung ương xuống các địa phương với nhiều tuyến vu hồi liên tỉnh, liên huyện nhằm đảm bảo thông tin thông suốt ngay cả khi một số tuyến bị địch phá hoại. Đặc biệt, mạng thông tin hữu tuyến điện liên lạc xuyên Trường Sơn đã trở thành "mạch máu" bảo đảm thông tin chỉ huy, điều hành và hậu cần cho chiến trường miền Nam trong suốt thời gian kháng chiến chống Mỹ.

img

Hệ thống đài vô tuyến điện được đặt từ Trung ương đến các khu, các tỉnh.

Ngành cũng đóng góp đặc biệt trong công tác đối ngoại. Tại các cuộc đàm phán quốc tế, tiêu biểu là Hiệp định Paris 1973, ngành đã tổ chức lực lượng, phương tiện kỹ thuật, bảo đảm tuyệt đối an toàn và bí mật thông tin giữa đoàn đàm phán và lãnh đạo trong nước.

Giai đoạn 1975-1986: Khôi phục, thống nhất mạng lưới trong giai đoạn tiền đổi mới

Sau Đại thắng mùa xuân năm 1975, ngành Bưu điện khẩn trương tiếp quản, khôi phục hệ thống thông tin ở miền Nam vốn bị tàn phá nặng nề, đồng thời hợp nhất hai hệ thống Bắc - Nam thành một mạng lưới thống nhất. Tuyến đường dây tải ba dọc Quốc lộ 1A nối Hà Nội - TP. Hồ Chí Minh - Cà Mau trở thành biểu tượng của một Việt Nam liền một dải.

Năm 1976, Việt Nam chính thức trở thành thành viên của Liên minh Bưu chính Thế giới (UPU), Liên minh Viễn thông quốc tế (ITU); là thành viên của Tổ chức Hợp tác Viễn thông Vệ tinh Quốc tế Intersputnik năm 1979, khẳng định vị thế quốc gia độc lập trên trường quốc tế. Đặc biệt, sự kiện khánh thành Đài thông tin vệ tinh mặt đất Hoa Sen I (năm 1980) tại Hà Nam và Hoa Sen II (năm 1985) tại TP. Hồ Chí Minh đã mở ra kỷ nguyên mới, đưa Việt Nam kết nối trực tiếp với mạng lưới thông tin toàn cầu.

img

Trạm thông tin vệ tinh mặt đất Hoa Sen.

Bên cạnh khôi phục và mở rộng hạ tầng, ngành Bưu điện đã triển khai các chương trình cải tiến kỹ thuật và quản lý, nhằm nâng cao chất lượng dịch vụ. Trong giai đoạn này, ngành cũng chú trọng đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ kỹ thuật, quản lý và khai thác, bảo đảm nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ mới.

Nhờ nỗ lực khắc phục khó khăn và sáng tạo trong nghiên cứu, chế tạo và tổ chức sản xuất, đến giữa thập niên 1980, mạng lưới bưu chính - viễn thông cả nước đã cơ bản được khôi phục và từng bước nâng cao chất lượng, trở thành công cụ đắc lực phục vụ quản lý nhà nước, phát triển kinh tế - xã hội và tăng cường tiềm lực quốc phòng - an ninh, tạo tiền đề cho những bước phát triển nhảy vọt về công nghệ sau khi bước vào thời kỳ Đổi mới từ năm 1986.

Giai đoạn 1986 - 2025: Bứt phá với chiến lược số hóa và hội nhập quốc tế

Bước vào thời kỳ Đổi mới, ngành Bưu điện đã lựa chọn một quyết sách chiến lược mang tính lịch sử "đi thẳng vào công nghệ số" của Tổng cục trưởng Đặng Văn Thân, thay đổi toàn bộ hạ tầng viễn thông, giúp Việt Nam số hóa đến cấp tỉnh khi thế giới còn chưa đạt 50%, đưa Việt Nam vào nhóm 10 quốc gia có tốc độ phát triển viễn thông nhanh nhất thế giới. Khi thế giới còn chủ yếu sử dụng analog, Việt Nam đã mạnh dạn triển khai tổng đài số, cáp quang số, vệ tinh số - rút ngắn khoảng cách công nghệ.

Ngày 16/4/1993, mạng GSM của MobiFone khai trương, mở ra kỷ nguyên điện thoại di động. Năm 1996, tuyến cáp quang biển quốc tế đầu tiên vận hành; năm 1997, Việt Nam chính thức kết nối Internet - bước ngoặt hội nhập toàn cầu. Tiếp đó, dịch vụ VoIP 178 (năm 2000) và sự ra đời của Viettel Mobile (năm 2004) đã xóa bỏ độc quyền, tạo cạnh tranh lành mạnh, giảm cước viễn thông, mở rộng tiếp cận dịch vụ.

Việt Nam chính thức mở cửa thị trường viễn thông với việc Viettel cung cấp dịch vụ thoại qua giao thức Internet (VoIP 178). Đây là lần đầu tiên một loại hình dịch vụ mới được triển khai theo cơ chế cạnh tranh, tạo bước ngoặt trong tiến trình đổi mới và hội nhập của ngành.

Một cột mốc lịch sử khác là việc phóng thành công vệ tinh VINASAT-1 (2008) và VINASAT-2 (2012), khẳng định chủ quyền quốc gia trên không gian, mở rộng hạ tầng viễn thông và thể hiện năng lực chinh phục công nghệ cao. Năm 2009, Việt Nam hoàn thành mục tiêu phổ cập di động, số thuê bao đạt 120 triệu, phủ sóng 99,8% dân số.

Không chỉ nhập khẩu công nghệ, Việt Nam đã tự nghiên cứu, chế tạo thiết bị viễn thông hiện đại: Năm 2017 đưa thiết bị 4G "Made in Viet Nam" vào mạng công cộng, năm 2019 nghiên cứu 5G, mở đường thương mại hóa. Đặc biệt, năm 2020, cả nước hoàn tất số hóa truyền hình, tắt sóng analog, khẳng định vị thế quốc gia số hóa nhanh hàng đầu khu vực.

Trải qua hơn 30 năm, đến nay Việt Nam có 130 triệu thuê bao băng rộng. Tốc độ tải xuống băng rộng di động trung bình đạt 151,69 Mbit/s (xếp hạng 18/104 thế giới), băng rộng cố định đạt 250,45 Mbit/s (xếp hạng 13/153). Hệ thống 6 tuyến cáp quang biển đang hoạt động, với mục tiêu đến năm 2030 đạt 15 tuyến quốc tế, trong đó có những tuyến do Việt Nam làm chủ.

Từ năm 2020, ngành Bưu chính và Viễn thông bước vào đổi mới lần 2, chuyển đổi hạ tầng viễn thông thành hạ tầng số, ứng dụng công nghệ thông tin thành chuyển đổi số. Chính phủ ban hành chương trình chuyển đổi số quốc gia với ba trụ cột là chính phủ số, kinh tế số và xã hội số. Xây dựng hạ tầng số, hạ tầng logistics, phát triển công nghiệp công nghệ số làm nền tảng để khởi động và thúc đẩy chuyển đổi số quốc gia. Năm 2022, phát triển các nền tảng số quốc gia. Năm 2023, năm dữ liệu số. Năm 2024, phát triển kinh tế số với 4 trụ cột: Công nghiệp công nghệ thông tin, Kinh tế số ngành, Quản trị số, Dữ liệu số. Chính tinh thần luôn tiên phong tiến về phía trước trong công cuộc chuyển đổi số đã đưa Việt Nam vào nhóm các nước có tốc độ tăng trưởng về kinh tế số, thương mại điện tử, chính phủ số, dịch vụ công trực tuyến vào hàng nhanh nhất trong khu vực và trên thế giới.

img

Việt Nam đặt mục tiêu chuyển đổi số quốc gia dựa vào 3 trụ cột.

Với tinh thần Nghị quyết 57-NQ-TW, thực hiện chỉ đạo của Đảng về sắp xếp, kiện toàn cơ cấu tổ chức bộ máy theo hướng tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả theo tinh thần Nghị quyết số 18-NQ/TW, từ ngày 01/3/2025, Bộ Khoa học và Công nghệ, Bộ Thông tin và Truyền thông chính thức hợp nhất thành Bộ Khoa học và Công nghệ mới, đánh dấu cột mốc lịch sử quan trọng của hai ngành, hai lĩnh vực.

Lần đầu tiên, các trụ cột phát triển quan trọng gồm khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số được quy tụ dưới một "mái nhà" chung. Sự hội tụ này tạo điều kiện để hình thành một hệ sinh thái đổi mới, đồng bộ và liên thông, tạo ra động lực phát triển mới, mạnh mẽ hơn dựa trên sự cộng hưởng giữa hai ngành, hai lĩnh vực khoa học và công nghệ, thông tin và truyền thông.

80 năm, từ những đường dây kéo tay, những bức điện khẩn, đến hạ tầng số kết nối toàn cầu, ngành Bưu chính và Viễn thông Việt Nam đã khẳng định bản lĩnh, trí tuệ và khát vọng vươn lên. Hàng vạn cán bộ, chiến sĩ đã hy sinh để giữ vững mạch máu thông tin. Những quyết sách đột phá trong thời kỳ Đổi mới đã đưa viễn thông Việt Nam từ lạc hậu thành một trong những ngành phát triển nhanh nhất thế giới.

Ngày nay, ngành không chỉ cung cấp dịch vụ bưu chính - viễn thông, mà đã trở thành hạ tầng số quốc gia, đóng vai trò nền tảng cho chuyển đổi số, trí tuệ nhân tạo, kinh tế số và xã hội số. Đó chính là minh chứng sống động cho hành trình từ "mạch máu thông tin" trong kháng chiến đến động lực phát triển đất nước trong kỷ nguyên số.

Trung tâm Truyền thông KH&CN

Cổng thông tin điện tử các đơn vị thuộc Bộ

Doanh nghiệp

Top