Hoàn thiện khung pháp lý thúc đẩy hoạt động chuyển giao công nghệ

Thứ sáu, 31/10/2025 21:45

Việc sửa đổi, bổ sung Luật Chuyển giao công nghệ (CGCN) nhằm tiếp tục hoàn thiện khung pháp lý, thúc đẩy hoạt động CGCN hiệu quả, đồng bộ, phù hợp với yêu cầu thực tiễn và định hướng phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, đồng thời bắt kịp xu thế trên thế giới.

Thúc đẩy chuyển giao công nghệ

Trình bày tóm tắt Tờ trình dự án Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật CGCN, tại Kỳ họp thứ 10, sáng 31/10, Bộ trưởng Bộ Khoa học và Công nghệ (KH&CN) Nguyễn Mạnh Hùng đã nhấn mạnh như trên.

Bộ trưởng cho biết, việc ban hành Luật cũng nhằm tăng cường phân cấp, đơn giản hóa thủ tục hành chính về CGCN, tăng cường công tác thông tin, thống kê về CGCN phục vụ quản lý nhà nước, thúc đẩy ĐMST và CGCN nội sinh, qua đó khơi luồng công nghệ giữa các doanh nghiệp, tổ chức, cá nhân trong nước cũng như giữa các cơ sở giáo dục đại học, viện nghiên cứu và khu vực sản xuất kinh doanh.

img

Bộ trưởng Bộ KH&CN Nguyễn Mạnh Hùng trình bày Tờ trình dự án Luật.

Đồng thời phát triển thị trường KH&CN hoạt động hiệu quả, minh bạch và chuyên nghiệp, tạo môi trường thuận lợi cho các giao dịch công nghệ, tài sản trí tuệ, góp phần nâng cao năng suất, chất lượng và sức cạnh tranh của nền kinh tế.

Bộ trưởng Bộ KH&CN Nguyễn Mạnh Hùng nhấn mạnh, quan điểm xây dựng Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật CGCN là thể chế hóa kịp thời quan điểm, đường lối đổi mới của Đảng và Nhà nước về phát triển KHCN,ĐMST&CĐS; coi doanh nghiệp là trung tâm của ứng dụng, chuyển giao và đổi mới công nghệ, thúc đẩy phát triển thị trường KH&CN trong nước; ngăn chặn nhập khẩu công nghệ lạc hậu, tiếp thu và làm chủ công nghệ tiên tiến của thế giới phù hợp với điều kiện Việt Nam.

img

Toàn cảnh Phiên họp toàn thể ở Hội trường.

Về nội dung chính của dự thảo Luật, Bộ trưởng Nguyễn Mạnh Hùng cho biết, các nội dung sửa đổi, bổ sung Luật CGCN tập trung vào 06 nhóm chính sách. Theo đó, bổ sung phạm vi công nghệ cao theo xu thế trên thế giới và yêu cầu thực tiễn; bổ sung công nghệ chiến lược và đối tượng công nghệ ưu tiên chuyển giao; quy định thẩm định công nghệ không chỉ trong dự án đầu tư mà còn theo đề nghị của các tổ chức, cá nhân để phù hợp với yêu cầu thực tiễn.

img

Các đại biểu tại Phiên họp.

Luật hỗ trợ thúc đẩy CGCN nội sinh, thương mại hóa kết quả nghiên cứu. Quy định về hình thức thể hiện quyền sở hữu và quyền sử dụng công nghệ, góp vốn bằng công nghệ. Nhà nước tự động giao quyền sở hữu công nghệ tự định đoạt, tự thỏa thuận về giá trị cho tổ chức tạo ra công nghệ có sử dụng ngân sách nhà nước. Nhà nước mua và phổ biến công nghệ phục vụ cho mục đích nghiên cứu ứng dụng phục vụ xã hội công ích. Quy định trường hợp bắt buộc chuyển giao công nghệ phù hợp với luật pháp và các yêu quốc tế.

Song song với đó, phát triển thị trường KH&CN, sửa đổi, bổ sung quy định việc nhà nước dành ngân sách phát triển mạng lưới các tổ chức trung gian thị trường KH&CN nhằm hỗ trợ hoạt động chuyển giao công nghệ, tăng cường hợp tác công tư thu hút nguồn lực xã hội để phát triển các tổ chức trung gian.

Luật cũng tạo động lực tài chính, thể chế, pháp lý cho hoạt động CGCN. Cho phép khoản chi cho CGCN được tính là chi phí trừ khi xác định thu nhập chịu thuế của doanh nghiệp. Ưu tiên thúc đẩy CGCN đối với công nghệ cao, công nghệ chiến lược, phổ biến công nghệ đến doanh nghiệp nhỏ và vừa hợp tác xã, hộ kinh doanh, cá nhân kinh doanh…

Chính sách ưu đãi cho hoạt động nghiên cứu, tiếp nhận và ứng dụng công nghệ

Thẩm tra dự án Luật, Chủ nhiệm Ủy ban Khoa học, Công nghệ và Môi trường Quốc hội (Ủy ban) Nguyễn Thanh Hải cho biết, về phạm vi điều chỉnh (khoản 1 Điều 1), Ủy ban cơ bản tán thành với việc mở rộng một số đối tượng CGCN phù hợp với xu thế của thế giới (như công nghệ xanh, công nghệ sạch). Tuy nhiên, việc mở rộng phạm vi đối với việc "thẩm định công nghệ" nói chung mà không giới hạn chỉ thẩm định công nghệ đối với các dự án đầu tư như quy định tại Luật CGCN hiện hành thì cần tiếp tục rà soát để bảo đảm tính khả thi trong tổ chức thực hiện và đồng bộ với pháp luật có liên quan.

Về chính sách của Nhà nước đối với hoạt động CGCN (khoản 3 Điều 1), đề nghị Cơ quan chủ trì soạn thảo nghiên cứu, bám sát định hướng, yêu cầu của Nghị quyết số 57-NQ/TW ngày 22/12/2024 của Bộ Chính trị, bổ sung vào dự thảo Luật các chính sách ưu đãi, hỗ trợ đối với các doanh nghiệp vừa và nhỏ trong hoạt động nghiên cứu, tiếp nhận, đổi mới, làm chủ và ứng dụng công nghệ.

Ngoài ra, đề nghị rà soát, nghiên cứu bổ sung thêm cơ chế khuyến khích để thực hiện hiệu quả chính sách "lan tỏa công nghệ... từ doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài (FDI) sang doanh nghiệp trong nước".

img

Chủ nhiệm Ủy ban Khoa học, Công nghệ và Môi trường Quốc hội Nguyễn Thanh Hải t

rình bày Báo cáo thẩm tra.

Về quyền CGCN (khoản 4 Điều 1 sửa đổi toàn bộ Điều 7 Luật CGCN), Chủ nhiệm Nguyễn Thanh Hải cho biết, đối với các công nghệ không được bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ như bí quyết kỹ thuật; công thức pha chế; quy trình sản xuất; công nghệ xử lý, bảo quản sản phẩm; Thông số kỹ thuật, bản vẽ; thiết kế đặc thù;… đề nghị Cơ quan chủ trì soạn thảo nghiên cứu bổ sung quy định về cơ chế chứng minh quyền sở hữu hoặc quyền sử dụng để bảo đảm tính khả thi trong quyền CGCN.

Đối với góp vốn bằng công nghệ (khoản 5 Điều 1), Ủy ban tán thành với định hướng sửa đổi tại khoản này. Quy định này sẽ góp phần tích cực tháo gỡ tình trạng "đóng băng" kết quả nghiên cứu, tài sản trí tuệ. Tuy nhiên, việc quy định cho phép tự quyết định giá trị công nghệ góp vốn sẽ tiềm ẩn rủi ro rất lớn, trục lợi chính sách như nguy cơ "thổi phồng" giá trị công nghệ góp vốn tạo ra ‘vốn ảo", vấn đề chuyển giá do nâng khống giá trị công nghệ góp vốn để trốn thuế… do vậy cần có cơ chế, chế tài kiểm soát thật chặt chẽ, hiệu quả và các biện pháp xử lý đảm bảo tính răn đe.

Về thực hiện thẩm định hoặc lấy ý kiến về công nghệ dự án đầu tư, Ủy ban tán thành việc quy định các hình thức tham vấn, trách nhiệm của chuyên gia và tổ chức tư vấn. Tuy nhiên, để đảm bảo công nghệ tại các dự án đầu tư đã được thẩm định đủ chất lượng, không lạc hậu, đề nghị bổ sung quy định về nguyên tắc phòng chống xung đột lợi ích trong hoạt động thẩm định công nghệ; làm rõ hơn về việc thành lập Hội đồng thẩm định, tiêu chí lựa chọn thành viên; trách nhiệm của Hội đồng thẩm định và các thành viên; cơ chế thẩm định đối với "dự án sử dụng công nghệ mới/chưa được kiểm chứng tại Việt Nam". Xem xét cơ chế chấp nhận kết quả thẩm định của các tổ chức quốc tế uy tín để giảm bớt thủ tục cho Việt Nam.

Về việc Nhà nước mua và phổ biến công nghệ (khoản 21 Điều 1), Ủy ban nhất trí với chủ trương này, nhưng đề nghị làm rõ nguồn kinh phí, cơ chế giám sát, và việc cụ thể hóa: mối quan hệ giữa cơ chế "mua công nghệ để phổ biến" với quy định về việc "bắt buộc chuyển giao" theo Luật Sở hữu trí tuệ; tiêu chí chọn và định giá công nghệ; cơ chế bảo mật; các tiêu chí riêng cho công nghệ quốc phòng, an ninh; làm rõ khái niệm "trường hợp cấp thiết" và thẩm quyền của cơ quan nhà nước.

Bên cạnh đó, các ý kiến cũng góp ý vào các nội dung về trách nhiệm quản lý nhà nước, giải thích từ ngữ, hiệu lực thi hành và điều khoản chuyển tiếp trong các dự thảo Luật.

Trung tâm Truyền thông KH&CN

Cổng thông tin điện tử các đơn vị thuộc Bộ

Doanh nghiệp

Top