Thực hiện Nghị quyết số 57-NQ/TW của Bộ Chính trị về phát triển KH&CN và chuyển đổi số quốc gia, Sở KH&CN đã triển khai nhiều chương trình, kế hoạch cụ thể nhằm đưa công nghệ vào đời sống. Chỉ trong 9 tháng đầu năm 2025, ngành KH&CN Thái Nguyên đã quản lý 131 nhiệm vụ KH&CN cấp tỉnh và cấp quốc gia, nhiều nhiệm vụ tập trung giải quyết trực tiếp các vấn đề mang tính thực tiễn như chuyển đổi số cấp xã, quản lý cơ sở dữ liệu địa phương, ứng dụng công nghệ trong nông nghiệp hay xây dựng mô hình phát triển ở vùng cao.
Một dấu ấn đáng kể là việc hoàn thành Bộ sách Lịch sử tỉnh Thái Nguyên với phương thức số hóa, giúp người dân, đặc biệt thế hệ trẻ vùng cao dễ dàng tiếp cận tri thức về lịch sử, văn hóa quê hương. Đây không chỉ là sản phẩm khoa học, mà còn là công cụ thu hẹp khoảng cách thông tin hiệu quả.
Phong trào đổi mới sáng tạo tiếp tục được đẩy mạnh, trong đó Cuộc thi "Đổi mới sáng tạo – Vì Thái Nguyên thân yêu" đã trở thành điểm nhấn khi thu hút đông đảo học sinh, sinh viên, doanh nghiệp và người dân. Từ đây, nhiều ý tưởng mới như "làng nghề số", "hợp tác xã số", "bản du lịch số" được hình thành, mở ra hướng tiếp cận hiện đại, giúp người dân chủ động hơn trong giải quyết các vấn đề của cộng đồng.
Trên phương diện chuyển đổi số, Thái Nguyên đạt nhiều kết quả nổi bật: 68/92 xã, phường, thị trấn đạt trạng thái xanh về chuyển đổi số; chỉ còn 3 xã ở mức đỏ. Hệ thống văn bản điện tử với hơn 18.130 tài khoản đã giúp xử lý 100% văn bản qua mạng, giảm chi phí và thời gian cho cả chính quyền và người dân. Nền tảng C-ThaiNguyen với hơn 460 nghìn lượt tải và gần 5.000 phản ánh được xử lý tiếp tục cho thấy hiệu quả của công nghệ trong việc kết nối chính quyền với người dân, từ việc phải đi hàng chục cây số để gửi kiến nghị, bà con vùng cao nay chỉ cần vài thao tác trên điện thoại.

Ảnh minh họa
Một trong những bước tiến quan trọng khác là việc Sở KH&CN phối hợp doanh nghiệp phủ sóng thêm 40/55 thôn bản còn "trắng" sóng, đưa tỷ lệ phủ sóng lên hơn 97%. Điều này không chỉ là thành công về mặt kỹ thuật, mà là minh chứng cho sự nỗ lực đưa cơ hội tiếp cận tri thức, thị trường và dịch vụ công đến với từng hộ dân.
Song song với phát triển hạ tầng, tỉnh đặc biệt chú trọng nâng cao năng lực sử dụng công nghệ cho người dân. Trung tâm Công nghệ Thông tin và Truyền thông, đơn vị trực thuộc Sở KH&CN đã vận hành Trung tâm dữ liệu tỉnh với hơn 12,5 triệu lượt truy cập và tích hợp nhiều bảng điều khiển số để theo dõi các chương trình an sinh như xóa nhà dột nát, hỗ trợ người có công. Nhờ đó, thông tin trở nên minh bạch hơn, người dân yên tâm hơn khi tiếp cận các chính sách hỗ trợ.
Các lớp tập huấn kỹ năng số, hướng dẫn sử dụng smartphone, đăng ký định danh điện tử, nộp hồ sơ dịch vụ công hay tìm kiếm thông tin nông nghiệp chính thống được tổ chức thường xuyên tại cơ sở. Từng bước, nhận thức và hành vi của người dân thay đổi, đặc biệt ở vùng đồng bào dân tộc thiểu số, nơi trước đây gần như "đứt gãy thông tin".
Thái Nguyên cũng chú trọng phát triển thương hiệu sản phẩm. Việc bảo hộ chỉ dẫn địa lý "Tân Cương" tại Liên minh châu Âu giúp chè Thái Nguyên nâng vị thế trên thị trường thế giới. Khi thông tin về chất lượng và nguồn gốc được minh bạch, người dân không chỉ bán sản phẩm mà còn bán thương hiệu và văn hóa bản địa.
Năm 2025, ngành KH&CN Thái Nguyên đặt ra những mục tiêu rõ ràng: 100% xã có điểm cầu trực tuyến và cáp quang; phủ sóng toàn bộ 15 thôn bản còn trắng sóng; hoàn thành toàn bộ nhiệm vụ chuyển đổi số cấp tỉnh; xây dựng mô hình "nông thôn số – công dân số – hợp tác xã số". Tất cả đều hướng đến mục tiêu chung: giảm nghèo đa chiều, trong đó giảm nghèo thông tin là nền tảng cốt lõi.
Định Hóa - minh chứng cho sức mạnh của thông tin đúng hướng
Nếu nhìn vào thực tế tại cơ sở, Định Hóa là ví dụ sinh động cho thấy giảm nghèo thông tin có ý nghĩa quan trọng như thế nào. Địa hình đồi núi khiến nơi đây từng tồn tại nhiều "vũng lõm" sóng điện thoại, hệ thống truyền thanh chưa phủ kín, khiến bà con gặp nhiều khó khăn khi tiếp cận chính sách hỗ trợ sản xuất. Trước tình hình đó, Đảng ủy và UBND xã đã triển khai hàng loạt giải pháp sáng tạo: mở rộng truyền thanh thông minh, tăng cường truyền thông lưu động, xây dựng các nhóm Zalo cộng đồng và cử cán bộ xuống tận thôn bản tuyên truyền.
Khi thông tin được truyền tải đến đúng đối tượng, đúng nhu cầu, người dân bắt đầu thay đổi nhận thức. Họ hiểu rằng giảm nghèo không chỉ là nhận hỗ trợ, mà là chủ động học hỏi, ứng dụng kiến thức vào sản xuất và liên kết hợp tác để phát triển bền vững. Các tổ chức đoàn thể như Hội Nông dân, Hội Phụ nữ, Đoàn Thanh niên giữ vai trò "cầu nối thông tin", tổ chức nhiều buổi tập huấn, sinh hoạt chuyên đề, hướng dẫn kỹ thuật chăn nuôi, trồng trọt gắn với tuyên truyền về giảm nghèo đa chiều.
Nhờ đó, hàng loạt mô hình kinh tế hiệu quả được hình thành. Mô hình chăn nuôi gà của anh Nguyễn Văn Chín (Chi hội Làng Mạ) là ví dụ điển hình: sau khi tham gia lớp tập huấn chăn nuôi an toàn sinh học, anh mạnh dạn mở rộng quy mô, ứng dụng kỹ thuật mới và thu hàng trăm triệu đồng mỗi năm. Hai hội viên Trần Văn Hoạt và Nguyễn Văn Du cũng thành công với mô hình nuôi trâu, bò theo hướng bán chăn thả kết hợp nuôi nhốt, mỗi năm xuất bán từ 6–8 con, tạo thu nhập ổn định cho gia đình.
Tại Chi hội Tân Tiến, anh Lục Văn Cường phát triển cơ sở sản xuất mì gạo truyền thống, sản phẩm "Mì gạo Tân Tiến" được tiêu thụ tại nhiều chợ, siêu thị và mang lại thu nhập khoảng 200 triệu đồng/năm. Mô hình trồng chè cành chất lượng cao của hội viên Lưu Văn Tuyên và Lưu Văn Thái cũng đem lại kết quả vượt mong đợi khi sản phẩm được thương lái ở Thái Nguyên và Hà Nội đặt mua thường xuyên.

Ảnh minh họa
Ấn tượng hơn cả là mô hình trồng nấm của anh Lương Văn Phúc (Chi hội Hợp Thành). Từ một hộ cận nghèo, sau khi tham gia chương trình đào tạo nghề và tiếp cận thông tin kỹ thuật, anh mạnh dạn thử nghiệm trồng nấm rơm, mộc nhĩ trong nhà kín, ứng dụng công nghệ sấy và đóng gói. Chỉ sau thời gian ngắn, sản phẩm của anh đã được thị trường đón nhận, thu nhập tăng gấp ba lần so với trước.
Từ thành công này, chính quyền xã xác định rõ: giảm nghèo bền vững không chỉ là hỗ trợ vật chất, mà quan trọng hơn là giúp người dân biết tìm kiếm thông tin, biết cách làm, biết cách kết nối thị trường. Xã đẩy mạnh liên kết sản xuất – tiêu thụ nông sản, phối hợp doanh nghiệp và hợp tác xã xây dựng chuỗi giá trị từ sản xuất đến tiêu thụ. Các lớp đào tạo nghề, hướng dẫn sử dụng công nghệ thông tin, tìm hiểu thị trường được tổ chức thường xuyên, hình thành một thế hệ nông dân mới năng động, hiểu biết và sẵn sàng thay đổi./.

