Kiến tạo hệ sinh thái sở hữu trí tuệ qua hợp tác chiến lược với WIPO

Thứ tư, 24/09/2025 19:39

Sở hữu trí tuệ ngày càng trở thành tài sản chiến lược của các quốc gia. Sau gần nửa thế kỷ Việt Nam hợp tác cùng Tổ chức Sở hữu trí tuệ thế giới - WIPO (từ 1976 đến nay) đã giúp định hình một hệ sinh thái sở hữu trí tuệ ngày càng bài bản.

Việt Nam gia nhập WIPO từ năm 1976. Một thập kỷ sau, chuyến thăm của Tổng Giám đốc WIPO Árpád Bogsch (1986) đã mở ra giai đoạn hợp tác toàn diện. Từ đó, nhiều thế hệ lãnh đạo WIPO đã tới Việt Nam, trong đó có ông Francis Gurry (2010, 2017) và sắp tới là Tổng Giám đốc Daren Tang (2025).

Các chuyến công tác của lãnh đạo WIPO không chỉ mang ý nghĩa ngoại giao, mà còn góp phần trực tiếp định hình hệ thống sở hữu trí tuệ (SHTT) của Việt Nam, gắn chính sách quốc gia với xu hướng toàn cầu. Trong mỗi lần làm việc, Bộ Khoa học và Công nghệ (KH&CN) đều khẳng định quyết tâm đưa Việt Nam trở thành quốc gia tiên phong trong ASEAN về đổi mới sáng tạo (ĐMST). Cục SHTT đã cụ thể hóa cam kết bằng những dự án thiết thực, như số hóa dữ liệu, đào tạo nhân lực, xây dựng mạng lưới TISC.

Kiến tạo hệ sinh thái sở hữu trí tuệ qua hợp tác chiến lược với WIPO - Ảnh 1.

Kiến tạo hệ sinh thái sở hữu trí tuệ qua hợp tác chiến lược với WIPO.

Một số thành quả hợp tác nổi bật, đem lại nhiều kết quả rõ nét: Lần đầu tiên, lĩnh vực SHTT được xác định là một nội dung trọng yếu trong Chiến lược phát triển quốc gia, thông qua việc ban hành Chiến lược SHTT đến năm 2030; Chỉ số đổi mới sáng tạo toàn cầu (GII) 2025 cho thấy, Việt Nam xếp hạng 44/139 nền kinh tế, đứng thứ 2/37 trong nhóm quốc gia thu nhập trung bình thấp. Trong 15 năm liền, Việt Nam luôn có kết quả ĐMST cao hơn so với mức độ phát triển, cho thấy hiệu quả trong việc chuyển các nguồn lực đầu vào thành kết quả đầu ra ĐMST. Việt Nam là một trong 3 quốc gia (Trung Quốc, Việt Nam, Ethiopia) có tốc độ tăng trưởng năng suất lao động nhanh nhất giai đoạn 2014-2024.

Bắt đầu thí điểm từ năm 2022 và chính thức công bố trên phạm vi toàn quốc từ năm 2023, PII trở thành mô hình đo lường năng lực đổi mới sáng tạo cấp tỉnh đầu tiên trong khu vực. Sáng kiến này đã được WIPO đánh giá cao và khuyến nghị nhân rộng ra nhiều quốc gia khác. Với PII, bức tranh năng lực đổi mới sáng tạo của từng tỉnh, thành phố được phản ánh một cách khách quan, qua đó giúp địa phương hoạch định chính sách phát triển sát thực tiễn và hiệu quả hơn.

Cùng với đó, chuyển đổi số trong quản lý SHTT được đẩy mạnh. Cục SHTT đã đưa vào vận hành hệ thống IPAS, tiến hành số hóa hơn 600.000 hồ sơ sáng chế, nhãn hiệu và kiểu dáng công nghiệp; đồng thời xây dựng hơn 50 trung tâm TISC trên cả nước. Những nỗ lực này không chỉ hiện đại hóa công tác quản lý mà còn rút ngắn thời gian xử lý, nâng cao tính minh bạch và tăng khả năng tiếp cận tri thức sở hữu công nghiệp của doanh nghiệp và người dân.

Ở phương diện hội nhập quốc tế, Việt Nam đã tham gia 15 điều ước quốc tế về sở hữu trí tuệ, trong đó tiêu biểu là Hiệp ước Hợp tác sáng chế (gia nhập năm 1993), Nghị định thư Madrid (2006) và Thỏa ước La Hay (2019). Việc tham gia các cơ chế đa phương này tạo điều kiện thuận lợi để doanh nghiệp Việt Nam mở rộng phạm vi bảo hộ sáng chế, nhãn hiệu và kiểu dáng công nghiệp ra thị trường toàn cầu với thủ tục đơn giản, chi phí hợp lý và thời gian rút ngắn đáng kể.

Những kết quả trên khẳng định rõ vai trò "kiến tạo" của Bộ KH&CN trong việc đưa sở hữu trí tuệ trở thành công cụ thúc đẩy đổi mới sáng tạo, nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia và góp phần vào tăng trưởng kinh tế bền vững.

Bên cạnh đó, Việt Nam không chỉ dừng ở vai trò thụ hưởng hỗ trợ từ WIPO, mà còn ngày càng chủ động tham gia tích cực vào các ủy ban chuyên môn của WIPO. Việt Nam đã từng giữ trọng trách tại WIPO: Chủ tịch Ủy ban Điều phối (2014-2015), Chủ tịch Đại hội đồng (2018-2019). Gần đây, Việt Nam tham gia hội nghị ngoại giao thông qua văn kiện quốc tế về nguồn gen, tri thức truyền thống và hiệp ước Luật kiểu dáng công nghiệp.

Để có được vị thế đó, Việt Nam đã dựa trên hai trụ cột căn bản: Thể chế: Bộ KH&CN giữ vai trò tham mưu chiến lược, đồng bộ hóa luật pháp quốc gia với chuẩn mực quốc tế. Chiến lược SHTT đến 2030 đặt SHTT thành cấu phần của chiến lược phát triển quốc gia; các hệ thống PCT, Madrid, La Hay giúp doanh nghiệp giảm chi phí và thủ tục khi mở rộng bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ ra toàn cầu. Cục SHTT triển khai IPAS, nâng cao chất lượng thẩm định và quản trị đơn – tạo sự minh bạch và niềm tin; Nguồn nhân lực: WIPO đã hỗ trợ hàng trăm lượt cán bộ Việt Nam qua học bổng, tập huấn. Cục SHTT phối hợp mở rộng mạng lưới TISC, lan tỏa kỹ năng SHTT tới viện, trường, doanh nghiệp. Tới đây, việc phát triển đội ngũ chuyên gia về thẩm định, định giá và thương mại hóa tài sản trí tuệ sẽ là chìa khóa để biến tri thức thành giá trị kinh tế.

Có thể thấy, từ chuyến thăm đầu tiên của lãnh đạo WIPO năm 1986 đến nay, hợp tác Việt Nam - WIPO đã trở thành mối quan hệ đối tác chiến lược, toàn diện. Với sự quan tâm, chỉ đạo của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, sự dẫn dắt của Bộ KH&CN và sự triển khai của Cục SHTT, Việt Nam không chỉ củng cố vị thế trên bản đồ đổi mới sáng tạo toàn cầu, mà còn xây dựng hệ sinh thái SHTT hiện đại, gắn liền với phát triển kinh tế - xã hội./.

Trung tâm Truyền thông KH&CN

Cổng thông tin điện tử các đơn vị thuộc Bộ

Doanh nghiệp

Top