
Kinh tế số mở ra cơ hội mới cho nông nghiệp, nông thôn Việt Nam
Người dân nông thôn bắt nhịp chuyển đổi số
Báo cáo khảo sát của Chính phủ điện tử năm 2024 cho thấy, chỉ số hạ tầng viễn thông và internet tại Việt Nam tăng trưởng khá mạnh trong hai năm gần đây. Điều này khẳng định, người dân và doanh nghiệp ở nhiều vùng, đặc biệt là khu vực nông thôn, miền núi, đang được hưởng lợi nhiều hơn từ các dịch vụ và ứng dụng số.
Câu chuyện khởi nghiệp của anh Hoàng Văn Sằn, dân tộc Tày (Quảng Ninh) là minh chứng sinh động. Năm năm trước, anh bắt đầu xây dựng mô hình homestay ở vùng đất biên giới xa xôi. Nhiều người hoài nghi về khả năng thành công, bởi điều kiện hạ tầng hạn chế, việc quảng bá khó khăn. Nhưng nhờ tận dụng các nền tảng số, Homestay Hoàng Sằn nay đã trở thành điểm đến hút khách, được tìm kiếm nhiều trên Google, Facebook, Zalo… Tài khoản Facebook của homestay có gần 2.000 người theo dõi, hơn 50.000 lượt tiếp cận, thậm chí trên một diễn đàn du lịch lớn còn đạt tới 46.000 lượt quan tâm.
Không chỉ dừng lại ở du lịch, mô hình kinh tế số còn hiện diện trong sản xuất nông nghiệp. Anh Lỷ Văn Quạn (Quảng Ninh) đã mạnh dạn chuyển từ trồng lúa sang trồng ớt chào mào. Thời gian đầu, việc tiêu thụ còn khó khăn, nhưng từ khi đưa sản phẩm lên sàn thương mại điện tử, ớt chào mào của gia đình nhanh chóng được thị trường biết đến. "Tôi không chỉ bán lẻ như trước, mà giờ thương lái tìm đến tận nơi. Nhờ internet, chúng tôi vừa học hỏi kỹ thuật mới vừa mở rộng đầu ra sản phẩm", anh Quạn chia sẻ.
Để có những thay đổi tích cực ấy, hạ tầng viễn thông – internet đóng vai trò then chốt. Chỉ riêng tại Quảng Ninh, tỉnh đã hoàn thiện 57 trạm BTS và triển khai cáp quang đến các thôn, bản vùng sâu, vùng xa. Việc phủ sóng internet băng rộng không chỉ giúp người dân tiếp cận thông tin, mà còn mở đường cho du lịch cộng đồng, nông sản địa phương tiếp cận thị trường rộng lớn.
Theo số liệu thống kê giai đoạn 2015-2019, khả năng tiếp cận công nghệ thông tin của đồng bào dân tộc thiểu số (DTTS) đã cải thiện đáng kể. Năm 2019, có tới 92,5% hộ gia đình DTTS sử dụng điện thoại, tăng 17% so với năm 2015. Đặc biệt, tỉ lệ hộ sử dụng internet tăng từ 6,5% (2015) lên 61,3% (2019) – bước tiến vượt bậc trong tiếp cận thông tin.
Dẫu vậy, vẫn còn tồn tại chênh lệch giữa các vùng. Tây Nguyên là khu vực có tỉ lệ hộ gia đình DTTS sử dụng internet thấp nhất, chỉ 46,1%. Một số dân tộc như La Hủ, Brâu, Chứt, Rơ Măm… có tỉ lệ sử dụng internet dưới 30%. Điều này cho thấy, để kinh tế số thực sự lan tỏa, cần tiếp tục ưu tiên đầu tư hạ tầng viễn thông cho những vùng còn "trắng" sóng.
Hạ tầng số và công nghệ mới – động lực cho nông nghiệp bứt phá
Phát biểu tại hội nghị gần đây, Thứ trưởng Bộ Khoa học và Công nghệ Phạm Đức Long cho biết, hiện vẫn còn 238 thôn, bản đã có điện lưới quốc gia nhưng chưa có sóng viễn thông. Bộ đã chỉ đạo các doanh nghiệp viễn thông khẩn trương hoàn thành hạ tầng trước ngày 31/8/2025, phát sóng chậm nhất trong tuần thứ hai tháng 9/2025.
Đối với 117 thôn, bản chưa có điện, Bộ KH&CN phối hợp với Bộ Công Thương và Tập đoàn EVN để xây dựng phương án cấp điện đồng bộ với đầu tư viễn thông, dự kiến hoàn thành trước 30/11/2025. "Bộ sẽ trình Chính phủ ban hành nghị quyết hỗ trợ chi phí từ Quỹ Dịch vụ viễn thông công ích để khuyến khích doanh nghiệp triển khai hạ tầng tại những nơi khó khăn", Thứ trưởng nhấn mạnh.
Cuối năm 2024, cả nước còn tới 761 thôn, bản "lõm sóng", trong đó 543 thôn thuộc vùng đặc biệt khó khăn. Thủ tướng đã yêu cầu xử lý dứt điểm tình trạng này trong năm 2025. Việc kiên quyết xóa bỏ "lõm sóng" không chỉ là cam kết chính trị, mà còn là yếu tố tiên quyết để đưa dịch vụ số, thương mại điện tử, giáo dục trực tuyến… đến với người dân vùng sâu, vùng xa.
Một trong những giải pháp được giới chuyên gia đánh giá cao là triển khai dịch vụ internet băng rộng qua vệ tinh quỹ đạo tầm thấp (LEO). Công nghệ này giúp cung cấp internet tốc độ cao ở những khu vực mà cáp quang không thể vươn tới, như hải đảo, vùng núi cao, biên giới.
Thứ trưởng Phạm Đức Long cho biết, Bộ KH&CN sẽ cấp phép và triển khai thí điểm có kiểm soát dịch vụ này ngay khi doanh nghiệp hoàn tất thủ tục đầu tư, thành lập pháp nhân tại Việt Nam. Dự kiến, từ quý IV/2025, dịch vụ vệ tinh LEO có thể chính thức được triển khai, mở ra triển vọng phủ sóng toàn quốc.
Theo phân tích của các chuyên gia, internet vệ tinh LEO sẽ không chỉ phục vụ nhu cầu kết nối của người dân, mà còn hỗ trợ phát triển chính phủ số, giáo dục, y tế từ xa, quản lý chuỗi cung ứng nông sản, thương mại điện tử… ở những vùng khó khăn.
Từ thực tiễn các mô hình ở Quảng Ninh có thể thấy, kinh tế số đã và đang mang lại nhiều thay đổi cho sản xuất nông nghiệp và đời sống nông thôn. Việc bán hàng qua mạng giúp nông sản có thị trường rộng mở; quảng bá du lịch số giúp bản làng xa xôi được nhiều du khách biết đến; kết nối internet băng rộng giúp người dân tiếp cận tri thức, kỹ thuật mới nhanh chóng.
Chuyển đổi số trong nông nghiệp không chỉ dừng lại ở việc bán hàng trực tuyến. Xu hướng mới là ứng dụng công nghệ IoT, trí tuệ nhân tạo, dữ liệu lớn trong sản xuất, chế biến, phân phối nông sản. Hệ thống cảm biến thông minh có thể giúp nông dân theo dõi độ ẩm, dinh dưỡng đất; nền tảng dữ liệu giúp dự báo mùa vụ, dịch bệnh; blockchain hỗ trợ truy xuất nguồn gốc minh bạch.
Nếu tận dụng tốt kinh tế số, nông nghiệp Việt Nam có thể bước sang giai đoạn mới: tăng giá trị, giảm chi phí, phát triển bền vững. Điều này không chỉ nâng cao thu nhập cho nông dân, mà còn góp phần bảo đảm an ninh lương thực, mở rộng thị trường xuất khẩu, hiện đại hóa nông thôn.
Chương trình chuyển đổi số quốc gia đang mở ra cơ hội lớn để nông nghiệp, nông thôn Việt Nam bứt phá. Những homestay được quảng bá trực tuyến, những nông sản được tiêu thụ qua thương mại điện tử, những bản làng miền núi được kết nối internet chỉ là những ví dụ khởi đầu. Khi hạ tầng viễn thông được hoàn thiện, công nghệ vệ tinh tầm thấp được triển khai, cùng với sự đồng hành của chính quyền và doanh nghiệp, kinh tế số chắc chắn sẽ trở thành động lực mạnh mẽ đưa nông nghiệp Việt Nam tiến tới tương lai hiện đại, xanh và bền vững.