Kết quả nổi bật của nhiệm vụ là phân lập và tuyển chọn thành công hai chủng nấm A. subrufescens AS7 và AS10 có hàm lượng polysaccharides nội bào trên 3%, sinh trưởng ổn định, đáp ứng yêu cầu sản xuất quy mô lớn.
Nhóm nghiên cứu đồng thời làm chủ công nghệ lên men chìm sục khí và thiết kế, chế tạo hoàn chỉnh dây chuyền thiết bị lên men 1.000 lít/mẻ, hệ thiết bị trích ly 100 lít/mẻ, cùng bộ quy trình vận hành đồng bộ. Các hệ thống này đã được lắp đặt, chạy thử thành công và chứng minh tính ổn định, an toàn về kỹ thuật.

Nhóm đã nghiên cứu thành công công nghệ sản xuất và chế biến nấm Agaricus subrufescens.
Trên cơ sở đó, đề tài đã sản xuất được 200 kg bột sinh khối nấm, 6 kg sinh khối trích ly và ứng dụng vào phát triển 08 sản phẩm giá trị gia tăng: bột gạo lứt – nấm, bột cà phê – nấm, bột cacao – nấm, trà matcha chứa nấm, bột rau củ (cà rốt – nghệ – nấm), bột nấm trích ly, bột sinh khối và viên nang thực phẩm. Các sản phẩm đều đạt yêu cầu về chất lượng, độ an toàn, có thời hạn bảo quản tối thiểu 1 năm và đã được xây dựng bộ tiêu chuẩn cơ sở, hoàn thiện hồ sơ công bố sản phẩm.
Kết quả thử nghiệm độc tính và hoạt tính sinh học cho thấy sản phẩm sinh khối và cao chiết nấm an toàn trên động vật, đồng thời có độc tính trên tế bào ung thư vú, mở ra triển vọng phát triển dòng sản phẩm hỗ trợ sức khỏe.

Các sản phẩm của đề tài có tiềm năng cạnh tranh lớn so với sản phẩm cùng loại. Ảnh minh họa.
Về hiệu quả kinh tế, nhiều sản phẩm có giá thành thấp hơn đáng kể so với sản phẩm tương tự trên thị trường quốc tế, bột sinh khối nấm chỉ bằng 33,3% so với sản phẩm của Đức; trà matcha – nấm bằng 30,2% giá sản phẩm của Indonesia; viên nang chiết xuất nấm chỉ bằng 55% giá sản phẩm của Đức. Điều này cho thấy tiềm năng cạnh tranh lớn khi thương mại hóa trong nước và xuất khẩu.
Đề tài cũng mang lại các lợi ích xã hội và môi trường, đặc biệt là khả năng làm chủ công nghệ sản xuất nấm trong môi trường dịch lỏng vô trùng, giúp giảm rủi ro nhiễm vi sinh, rút ngắn thời gian sản xuất so với nuôi trồng truyền thống và không phụ thuộc điều kiện khí hậu. Công nghệ này mở ra hướng đi mới cho ngành sản xuất nấm và chế biến sâu nông sản Việt Nam.

