Ngày 01/3/2025, Bộ KH&CN mới chính thức đi vào hoạt động trên cơ sở hợp nhất Bộ KH&CN và Bộ Thông tin và Truyền thông. Đây là dấu mốc lịch sử quan trọng, mở đầu cho nhiệm kỳ đầu tiên thực hiện Nghị quyết 57 của Bộ Chính trị về đột phá phát triển khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số (KHCN,ĐMST&CĐS) quốc gia. Đồng thời, đây cũng là nhiệm kỳ đầu tiên thực hiện toàn diện "đổi mới lần hai" về KHCN và BCVT; nhiệm kỳ đầu tiên bộ ba chiến lược KHCN,ĐMST&CĐS về chung một mái nhà; nhiệm kỳ đầu tiên KHCN,ĐMST&CĐS gánh vác sứ mệnh là động lực chính để hiện thực hóa khát vọng đưa Việt Nam trở thành nước phát triển, thu nhập cao theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Nhìn lại hành trình 80 năm ấy, ngành KHCN, BCVT đã trải qua nhiều giai đoạn lịch sử đầy thử thách, gắn với dấu ấn của những nhà lãnh đạo tiêu biểu. Mỗi đồng chí, bằng tầm nhìn chiến lược và quyết sách táo bạo đã để lại dấu ấn sâu đậm, góp phần đưa đất nước vượt qua khó khăn, khẳng định vị thế ngày càng vững vàng trên trường quốc tế.
Giai đoạn 1945-1954:
Đồng chí Đào Trọng Kim, Bộ trưởng Bộ Giao thông Công chính giai đoạn từ tháng 8/1945 đến tháng 3/1946
Tháng Tám năm 1945, cùng với sự ra đời của Chính phủ lâm thời, đồng chí Đào Trọng Kim được giao trọng trách Bộ trưởng Bộ Giao thông Công chính. Từ tháng 8/1945 đến tháng 3/1946, đồng chí lãnh đạo ngành giao thông công chính trong những ngày đầu của nền độc lập, khi đất nước còn muôn vàn khó khăn, thiếu thốn. Dưới sự chỉ đạo của đồng chí Đào Trọng Kim, hệ thống cầu đường, công trình công cộng bước đầu được khôi phục và duy trì, bảo đảm thông thương và đi lại, phục vụ cho chính quyền cách mạng và đời sống nhân dân. Đó là những viên gạch đầu tiên, đặt nền móng cho sự phát triển của ngành giao thông công chính Việt Nam trong giai đoạn mới.

Đồng chí Đào Trọng Kim, Bộ trưởng Bộ Giao thông Công chính giai đoạn 8/1945-3/1946
Đồng chí Trần Đăng Khoa, Bộ trưởng Bộ Giao thông Công chính giai đoạn từ tháng 3/1946 đến tháng 9/1955
Trong giai đoạn từ tháng 3/1946 đến tháng 9/1955, đồng chí Trần Đăng Khoa giữ cương vị Bộ trưởng Bộ Giao thông Công chính. Những năm đầu xây dựng chính quyền Cách mạng, đồng chí đã chỉ đạo mở đường, xây dựng mạng lưới thông tin liên lạc hữu tuyến, vô tuyến và đường thư. Hệ thống trạm liên lạc kết hợp với vận tải được hình thành từ khu, tỉnh đến cả nước, bảo đảm giao thông, bưu điện thông suốt, kịp thời phục vụ kháng chiến, tiếp tế cho quân đội và nhân dân.

Đồng chí Trần Đăng Khoa, Bộ trưởng Bộ Giao thông Công chính giai đoạn 3/1946-9/1955.
Giai đoạn 1954 – 1975
Đồng chí Nguyễn Văn Trân, Bộ trưởng Bộ Giao thông và Bưu điện giai đoạn từ tháng 9/1955 đến tháng 7/1960
Đồng chí Nguyễn Văn Trân giữ cương vị Bộ trưởng Bộ Giao thông và Bưu điện từ tháng 9/1955 đến tháng 7/1960. Trong thời kỳ đầu xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc, đồng chí chỉ đạo phát triển hệ thống giao thông, khôi phục và mở rộng mạng lưới bưu chính - viễn thông, bảo đảm thông tin liên lạc phục vụ nhiệm vụ chính trị, quốc phòng và phát triển kinh tế.

Đồng chí Nguyễn Văn Trân, Bộ trưởng Bộ Giao thông và Bưu điện giai đoạn 9/1955 - 7/1960.
Đồng chí Trường Chinh, Chủ nhiệm Uỷ ban Khoa học Nhà nước giai đoạn từ tháng 3/1959 đến tháng 7/1960
Đồng chí Trường Chinh là người trực tiếp chỉ đạo việc thành lập Ủy ban Khoa học Nhà nước và giữ cương vị Chủ nhiệm đầu tiên từ tháng 3/1959 đến tháng 7/1960. Trong thời gian này, đồng chí luôn nhấn mạnh tầm quan trọng của khoa học trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội, đặc biệt chú trọng phát triển khoa học, giáo dục để phục vụ công cuộc kháng chiến và xây dựng đất nước.

Đồng chí Trường Chinh, Chủ nhiệm Uỷ ban Khoa học Nhà nước giai đoạn tháng 3/1959 - 7/1960.
Đồng chí Võ Nguyên Giáp, Chủ nhiệm Uỷ ban Khoa học Nhà nước giai đoạn từ tháng 7/1960 đến tháng 01/1963
Đại tướng Võ Nguyên Giáp không chỉ là nhà quân sự kiệt xuất mà còn dành nhiều tâm huyết cho khoa học và giáo dục. Từ tháng 7/1960 đến tháng 1/1963, đồng chí kiêm nhiệm cương vị Chủ nhiệm Ủy ban Khoa học Nhà nước, đưa ra nhiều kiến nghị quan trọng về đổi mới quản lý khoa học và giáo dục. Đồng chí cũng định hướng những lĩnh vực chiến lược cho các giai đoạn sau, như khoa học và kinh tế biển, cùng các vấn đề về môi trường.

Đồng chí Võ Nguyên Giáp, Chủ nhiệm Uỷ ban Khoa học Nhà nước giai đoạn 7/1960 – 01/1963.
Đồng chí Phan Trọng Tuệ, Bộ trưởng Bộ Giao thông và Bưu điện giai đoạn từ tháng 7/1960 đến tháng 5/1961
Đồng chí Phan Trọng Tuệ, Bộ trưởng Bộ Giao thông và Bưu điện giai đoạn từ tháng 7/1960 đến tháng 5/1961. Đây là giai đoạn ngành đạt được nhiều dấu mốc quan trọng: Tổ chức thành công Triển lãm Giao thông - Bưu điện năm 1961; mở lớp đào tạo quốc tế đầu tiên cho học sinh Lào tại Trường Bưu điện Hà Đông; ngày 13/5/1961, Hội đồng Chính phủ ra Quyết định số 63/CP tách Tổng cục Bưu điện trực thuộc Chính phủ, đánh dấu bước ngoặt trong quá trình xây dựng ngành Bưu điện độc lập, hiện đại hơn.

Đồng chí Phan Trọng Tuệ, Bộ trưởng Bộ Giao thông và Bưu điện giai đoạn 7/1960 - 5/1961.
Đồng chí Trần Quang Bình, Tổng cục trưởng Tổng cục Bưu điện giai đoạn từ tháng 5/1961 đến tháng 7/1976
Đồng chí Trần Quang Bình là một trong những lãnh đạo gắn bó lâu dài với ngành Bưu điện. Từ năm 1951, đồng chí giữ chức Giám đốc Nha Bưu điện Vô tuyến điện Việt Nam, sau đó là Thứ trưởng Bộ Giao thông vận tải và Bưu điện, kiêm Tổng cục trưởng Tổng cục Bưu điện (6/1956 – 5/1961), và tiếp tục giữ vị trí Tổng cục trưởng Tổng cục Bưu điện đến tháng 7/1976. Đồng chí có nhiều đóng góp trong xây dựng, phát triển mạng lưới bưu chính viễn thông trong thời kỳ kháng chiến và những năm đầu xây dựng đất nước.

Đồng chí Trần Quang Bình, Tổng cục trưởng Tổng cục Bưu điện giai đoạn 5/1961 - 7/1976.
Đồng chí Nguyễn Duy Trinh, Chủ nhiệm Uỷ ban Khoa học Nhà nước giai đoạn từ tháng 01/1963 đến tháng 10/1965
Đồng chí Nguyễn Duy Trinh là một trong những lãnh đạo chủ chốt, gắn liền với lĩnh vực ngoại giao và khoa học kỹ thuật. Đồng chí đảm nhiệm vị trí Chủ nhiệm Ủy ban Khoa học Nhà nước từ tháng 01/1963 đến tháng 10/1965, được đánh giá là người luôn sâu sát thực tiễn, có nhiều đóng góp quan trọng vào chiến lược, sách lược về phát triển kinh tế và cải tạo xã hội, phát triển kinh tế, văn hóa, khoa học sát với từng vùng, miền và trong từng thời điểm cách mạng.

Đồng chí Nguyễn Duy Trinh, Chủ nhiệm Uỷ ban Khoa học Nhà nước giai đoạn 01/1963 - 10/1965.
Đồng chí Trần Đại Nghĩa, Chủ nhiệm Uỷ ban Khoa học và Kỹ thuật Nhà nước giai đoạn từ tháng 10/1965 đến tháng 02/1977
Năm 1965, Ủy ban Khoa học Nhà nước được tách thành Ủy ban Khoa học và Kỹ thuật Nhà nước và Viện Khoa học Xã hội Việt Nam, đồng chí Trần Đại Nghĩa được giao trọng trách Chủ nhiệm Ủy ban Khoa học và Kỹ thuật Nhà nước từ tháng 10/1965 đến tháng 2/1977. Trong bối cảnh chiến tranh ác liệt, đồng chí Trần Đại Nghĩa đã lãnh đạo tập trung phát triển khoa học kỹ thuật phục vụ quốc phòng và đời sống nhân dân; xây dựng đội ngũ cán bộ khoa học kỹ thuật ngày càng lớn mạnh, chuyên nghiệp và sáng tạo.
Dưới sự dẫn dắt của đồng chí Trần Đại Nghĩa, nhiều công trình nghiên cứu trọng điểm được triển khai, nâng cao tiềm lực khoa học, công nghệ và quốc phòng, đồng thời đặt nền móng vững chắc cho sự phát triển khoa học hiện đại của Việt Nam.

Đồng chí Trần Đại Nghĩa, Chủ nhiệm Uỷ ban Khoa học và Kỹ thuật Nhà nước giai đoạn 10/1965 - 02/1977
Đồng chí Vũ Văn Quý, Quyền Tổng cục trưởng Tổng cục Bưu điện giai đoạn 1970 - 1976
Từ năm 1970 đến năm 1976, đồng chí Vũ Văn Quý giữ cương vị Quyền Tổng cục trưởng Tổng cục Bưu điện. Dưới sự chỉ đạo của đồng chí Vũ Văn Quý, ngành Bưu điện đã vượt qua muôn vàn khó khăn, duy trì thông tin liên lạc bí mật, thông suốt, kịp thời. Những đường dây nóng ra tiền tuyến, những tuyến giao liên vượt Trường Sơn, những sáng kiến kỹ thuật bảo đảm thông tin trong bom đạn… đã trở thành mạch máu liên lạc của kháng chiến.

Đồng chí Vũ Văn Quý, Quyền Tổng cục trưởng Tổng cục Bưu điện giai đoạn 1970 – 1976.
Giai đoạn 1975 – 1986
Đồng chí Phạm Niên, Tổng Cục trưởng Tổng Cục Bưu điện giai đoạn từ tháng 7/1976 đến tháng 12/1984
Từ tháng 7/1976 đến tháng 12/1984, đồng chí Phạm Niên giữ cương vị Tổng cục trưởng Tổng cục Bưu điện. Dưới sự chỉ đạo của đồng chí Phạm Niên, ngành Bưu điện đã nhanh chóng nối liền hai miền Nam - Bắc bằng hệ thống bưu chính, viễn thông thống nhất, khắc phục hậu quả chiến tranh, từng bước hiện đại hóa thông tin liên lạc. Đóng góp của đồng chí và ngành Bưu điện trong giai đoạn này đã tạo nền tảng vững chắc cho sự phát triển bưu chính - viễn thông Việt Nam trong những thập niên sau.

Đồng chí Phạm Niên, Tổng Cục trưởng Tổng Cục Bưu điện giai đoạn 7/1976 - 12/1984.
Đồng chí Trần Quỳnh, Chủ nhiệm Uỷ ban Khoa học và Kỹ thuật Nhà nước giai đoạn từ tháng 02/1977 đến tháng 02/1980
Đồng chí Trần Quỳnh giữ cương vị Phó Chủ nhiệm Ủy ban Khoa học và Kỹ thuật Nhà nước từ giai đoạn 1965-1976 trước khi được bầu làm Chủ nhiệm từ tháng 02/1977 đến tháng 02/1980. Trên cương vị này, đồng chí có nhiều đóng góp trong quản lý, điều phối và thúc đẩy hoạt động nghiên cứu khoa học. Đặc biệt, đồng chí là người ký quyết định thành lập Trung tâm Tiêu chuẩn Đo lường Chất lượng Nhà nước khu vực II - tiền thân của QUATEST 2 ngày nay.

Đồng chí Trần Quỳnh, Chủ nhiệm Uỷ ban Khoa học và Kỹ thuật Nhà nước giai đoạn 02/1977 - 02/1980.
Đồng chí Lê Khắc, Chủ nhiệm Uỷ ban Khoa học và Kỹ thuật Nhà nước giai đoạn từ tháng 02/1980 đến tháng 4/1982
Đồng chí Lê Khắc đảm nhiệm cương vị Chủ nhiệm Ủy ban Khoa học và Kỹ thuật Nhà nước từ tháng 2/1980 đến tháng 4/1982. Trước đó, năm 1965, đồng chí được bổ nhiệm làm Phó Chủ nhiệm Ủy ban Khoa học và Kỹ thuật Nhà nước, kiêm Trưởng Ban Cơ học. Trong giai đoạn này, Ủy ban từng bước được kiện toàn, mở rộng các tổ chức trực thuộc ở những lĩnh vực quan trọng như tiêu chuẩn đo lường chất lượng, sở hữu trí tuệ, năng lượng nguyên tử và quản lý khoa học kỹ thuật địa phương, đặt nền móng cho sự phát triển toàn diện của hệ thống khoa học - kỹ thuật quốc gia.

Đồng chí Lê Khắc, Chủ nhiệm Uỷ ban Khoa học và Kỹ thuật Nhà nước giai đoạn 02/1980 - 4/1982
Đồng chí Đặng Hữu, Chủ nhiệm Uỷ ban Khoa học và Kỹ thuật Nhà nước giai đoạn từ tháng 4/1982 đến tháng 3/1990
Đồng chí Đặng Hữu là người giữ cương vị đứng đầu ngành khoa học và công nghệ từ tháng 4/1982 đến tháng 11/1996, qua nhiều giai đoạn chuyển tiếp. Với gần 8 năm là Chủ nhiệm Ủy ban Khoa học - Kỹ thuật Nhà nước (4/1982-3/1990), gần 3 năm là Chủ nhiệm Ủy ban Khoa học Nhà nước sau khi đổi tên (4/1990-9/1992). Giai đoạn này, Ủy ban Khoa học Nhà nước đổi tên thành Bộ Khoa học, Công nghệ và Môi trường, và đồng chí đảm nhiệm chức Bộ trưởng từ tháng 10/1992 đến tháng 11/1996.

Đồng chí Đặng Hữu, Chủ nhiệm Uỷ ban Khoa học và Kỹ thuật Nhà nước giai đoạn 4/1982 – 3/1990.
Đồng chí để lại dấu ấn với việc tham mưu Chính phủ ban hành 4 Nghị quyết chiến lược về phát triển Công nghệ Thông tin, Công nghệ Sinh học, Công nghệ Vật liệu mới và Công nghệ Tự động hóa, đặt nền móng cho sự phát triển của bốn ngành KH&CN trọng điểm. Đồng thời, đồng chí góp phần kiện toàn hệ thống nghiên cứu quốc gia, thúc đẩy vận động mở Internet và chuẩn bị cho sự kiện Việt Nam kết nối Internet chính thức ngày 19/11/1997, đánh dấu bước ngoặt quan trọng trong quá trình hiện đại hóa công nghệ thông tin của đất nước.
Đồng chí Đặng Văn Thân, Quyền Tổng Cục trưởng Tổng cục Bưu điện giai đoạn từ tháng 12/1984 đến năm 1986; Tổng Cục trưởng Tổng cục Bưu điện giai đoạn 1986 đến tháng 6/1990 và giai đoạn từ tháng 10/1992 đến tháng 10/1996.
Dưới sự lãnh đạo của đồng chí Đặng Văn Thân, ngành Bưu chính viễn thông Việt Nam đã mở rộng mạng lưới, ứng dụng công nghệ hiện đại và tiên phong số hóa hạ tầng.
Những quyết định chiến lược của đồng chí Đặng Văn Thân, như "đi thẳng lên kỹ thuật số", giúp Việt Nam vận hành tuyến cáp quang biển quốc tế T–V–H năm 1996, kết nối Internet năm 1997, đưa Việt Nam vào nhóm 10 quốc gia có tốc độ phát triển viễn thông nhanh nhất thế giới.

Đồng chí Đặng Văn Thân, Quyền Tổng Cục trưởng Tổng cục Bưu điện giai đoạn 12/1984 – 1986.
Giai đoạn 1986 – 2025
Đồng chí Đặng Hữu:
Đồng chí Đặng Hữu là Chủ nhiệm Uỷ ban Khoa học và Kỹ thuật Nhà nước giai đoạn 4/1982 – 3/1990. Đồng chí là Chủ nhiệm Ủy ban Khoa học Nhà nước giai đoạn 3/1990 - 10/1992, sau đó là Bộ trưởng Bộ Khoa học, Công nghệ và Môi trường giai đoạn 10/1992 - 11/1996.
Đồng chí Đặng Văn Thân:
Đồng chí Đặng Văn Thân là Tổng Cục trưởng Tổng cục Bưu điện giai đoạn 1986 - 6/1990; là Tổng Cục trưởng Tổng cục Bưu điện giai đoạn 10/1992 - 10/1996.
Đồng chí Bùi Danh Lưu, Bộ trưởng Bộ Giao thông Vận tải và Bưu điện giai đoạn từ tháng 6/1990 đến tháng 10/1992
Đồng chí Bùi Danh Lưu giữ cương vị Bộ trưởng Bộ Giao thông Vận tải và Bưu điện từ tháng 6/1990 đến tháng 10/1992, sau khi Bộ được hợp nhất từ Bộ Giao thông Vận tải, Tổng cục Bưu điện và Cục Hàng không dân dụng. Đây là giai đoạn quan trọng khi mạng viễn thông quốc tế bước vào thời kỳ hiện đại hóa. Đến năm 1992, ngành Bưu điện đã xây dựng và đưa vào hoạt động ba trạm vệ tinh mặt đất thuộc hệ Intelsat cùng hai tổng đài điện thoại quốc tế, mở ra bước phát triển mới cho thông tin liên lạc của đất nước.

Đồng chí Bùi Danh Lưu, Bộ trưởng Bộ Giao thông Vận tải và Bưu điện giai đoạn 6/1990 - 10/1992.
Đồng chí Nguyễn Huy Luận, Quyền Tổng Cục trưởng Tổng cục Bưu điện giai đoạn từ tháng 10/1996 đến tháng 02/1997
Đồng chí Nguyễn Huy Luận giữ cương vị Phó Tổng cục trưởng Tổng cục Bưu điện từ tháng 8/1995 đến tháng 9/1996. Từ tháng 10/1996 đến tháng 02/1997, đồng chí đảm nhiệm vai trò Quyền Tổng cục trưởng Tổng cục Bưu điện, sau đó tiếp tục là Phó Tổng cục trưởng giai đoạn từ tháng 3/1997 - 6/2002. Đồng chí góp phần quan trọng trong giai đoạn ngành Bưu điện bước vào thời kỳ đổi mới.

Đồng chí Nguyễn Huy Luận, Quyền Tổng Cục trưởng Tổng cục Bưu điện giai đoạn 10/1996 - 02/1997.
Đồng chí Phạm Gia Khiêm, Bộ trưởng Bộ Khoa học, Công nghệ và Môi trường giai đoạn từ tháng 11/1996 đến tháng 10/1997
Đồng chí Phạm Gia Khiêm đảm nhiệm cương vị Bộ trưởng Bộ Khoa học, Công nghệ và Môi trường từ tháng 11/1996 đến tháng 10/1997. Đồng chí đã có dấu ấn quan trọng trong việc hỗ trợ triển khai các chương trình quốc gia về công nghệ, đặc biệt trong quản lý nhà nước và giáo dục, cũng như thúc đẩy Luật Khoa học và Công nghệ (ban hành năm 2000). Đồng chí là người đã đặt nền móng cho việc gắn KH&CN với kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, thúc đẩy hợp tác quốc tế và mở đường cho sự hình thành, hoàn thiện hệ thống pháp luật về KH&CN tạo tiền đề cho sự phát triển lâu dài của ngành.

Đồng chí Phạm Gia Khiêm, Bộ trưởng Bộ Khoa học, Công nghệvà Môi trường giai đoạn 11/1996 - 10/1997. Ảnh: VGP
Đồng chí Mai Liêm Trực, Tổng Cục trưởng Tổng cục Bưu điện giai đoạn từ tháng 02/1997 đến tháng 8/2002
Đồng chí Mai Liêm Trực giữ cương vị Tổng cục trưởng Tổng cục Bưu điện từ tháng 02/1997 đến tháng 8/2002, trong giai đoạn đất nước đổi mới mạnh mẽ. Đồng chí là một trong những gương mặt tiêu biểu của ngành Bưu chính viễn thông thời kỳ hiện đại hóa và hội nhập quốc tế. Với tầm nhìn chiến lược, đồng chí Mai Liêm Trực kiên định ủng hộ việc sớm mở cửa và đưa Internet vào Việt Nam, để lại dấu ấn sâu đậm trong tiến trình phát triển và phổ cập Internet của đất nước.

Đồng chí Mai Liêm Trực, Tổng Cục trưởng Tổng cục Bưu điện giai đoạn 02/1997 - 8/2002. Ảnh: Vietnamnet.
Đồng chí Chu Tuấn Nhạ, Bộ trưởng Bộ Khoa học, Công nghệ và Môi trường giai đoạn từ tháng 10/1997 đến tháng 8/2002
Đồng chí Chu Tuấn Nhạ giữ vị trí Bộ trưởng Khoa học, Công nghệ và Môi trường từ tháng 10/1997 đến 8/2002. Trong nhiệm kỳ này, đồng chí thúc đẩy việc xây dựng và ban hành Luật KH&CN, tạo cơ sở pháp lý quan trọng cho các đạo luật tiếp theo như Luật Sở hữu trí tuệ, Luật Chuyển giao công nghệ.. Đồng thời, đồng chí chỉ đạo triển khai các chương trình KH&CN trọng điểm cấp Nhà nước trong các lĩnh vực nông nghiệp, công nghiệp, y tế và môi trường, hướng nghiên cứu từ lý thuyết sang ứng dụng thực tiễn, góp phần đưa kết quả khoa học vào sản xuất và đời sống.

Đồng chí Chu Tuấn Nhạ, Bộ trưởng Bộ Khoa học, Công nghệ và Môi trường giai đoạn 10/1997 - 8/2002.
Đồng chí Hoàng Văn Phong, Bộ trưởng Bộ Khoa học và Công nghệ giai đoạn từ tháng 8/2002 đến tháng 8/2011
Tháng 8/2002, Bộ KH&CN được thành lập sau khi lĩnh vực môi trường chuyển sang Bộ Tài nguyên và Môi trường. Giai đoạn tháng 8/2002 đến tháng 8/2011, đồng chí Hoàng Văn Phong đã để lại dấu ấn đậm nét trong việc kiện toàn tổ chức, thành lập các đơn vị mới đáp ứng yêu cầu phát triển KH&CN; mở rộng quản lý các lĩnh vực mũi nhọn, thúc đẩy nghiên cứu, ứng dụng, đổi mới công nghệ; tăng cường hợp tác quốc tế và tạo đột phá về đổi mới thể chế. Hàng loạt đạo luật nền tảng được ban hành, bao gồm: Luật Sở hữu trí tuệ (2005, sửa đổi năm 2009), Luật Chuyển giao công nghệ (2006, sửa đổi năm 2017), Luật Tiêu chuẩn và Quy chuẩn kỹ thuật (2006), Luật Chất lượng sản phẩm, hàng hóa (2007), Luật Năng lượng nguyên tử (2008), Luật Công nghệ cao (2008) và Luật Đo lường (2011).

Đồng chí Hoàng Văn Phong, Bộ trưởng Bộ Khoa học và Công nghệ giai đoạn 8/2002 - 8/2011.
Năm 2008, Quỹ Phát triển KH&CN Quốc gia đi vào hoạt động, chuyển cơ chế tài chính từ bao cấp sang cạnh tranh minh bạch, đánh giá theo kết quả, tạo điều kiện để đội ngũ khoa học tiếp cận nguồn lực theo chuẩn quốc tế. Cùng với đó, Quỹ Đổi mới Công nghệ Quốc gia được thành lập, hoàn thiện hệ thống thiết chế tài chính thúc đẩy nghiên cứu, ứng dụng và đổi mới sáng tạo.
Đồng chí Đỗ Trung Tá, Bộ trưởng Bộ Bưu chính, Viễn thông giai đoạn từ tháng 8/2002 đến tháng 8/2007
Giai đoạn từ tháng 8/2002 đến tháng 8/2007, dưới sự lãnh đạo của đồng chí Đỗ Trung Tá, Bộ Bưu chính, Viễn thông đánh dấu bước ngoặt quan trọng trong việc quản lý thống nhất lĩnh vực bưu chính, viễn thông và công nghệ thông tin. Đồng chí đã có nhiều quyết sách mang tính đột phá, như: Mở cửa thị trường viễn thông, khuyến khích sự tham gia của doanh nghiệp, tạo môi trường cạnh tranh lành mạnh, từ đó đưa dịch vụ viễn thông và Internet phát triển mạnh mẽ, đến được với hàng chục triệu người dân.

Đồng chí Đỗ Trung Tá, Bộ trưởng Bộ Bưu chính, Viễn thông giai đoạn 8/2002 - 8/2007.
Trong nhiệm kỳ, đồng chí Đỗ Trung Tá cũng đặt nền móng cho việc phát triển công nghệ thông tin, trực tiếp ký kết các thỏa thuận hợp tác quốc tế lớn, thúc đẩy hợp tác về công nghệ thông tin và phần mềm. Một dấu ấn đặc biệt khác của đồng chí Đỗ Trung Tá là việc khởi động dự án vệ tinh Vinasat-1, công trình mang tính biểu tượng khẳng định chủ quyền không gian và năng lực công nghệ của Việt Nam, mở ra thời kỳ mới trong lĩnh vực viễn thông vệ tinh.
Đồng chí Lê Doãn Hợp, Bộ trưởng Bộ Thông tin và Truyền thông giai đoạn từ tháng 8/2007 đến tháng 8/2011
Năm 2007, khi Bộ Thông tin và Truyền thông được thành lập, đồng chí Lê Doãn Hợp trở thành Bộ trưởng đầu tiên, mở ra giai đoạn phát triển mới. Trong nhiệm kỳ 2007-2011, đồng chí Lê Doãn Hợp đã để lại dấu ấn sâu đậm: Kiện toàn bộ máy quản lý thống nhất các lĩnh vực thông tin - truyền thông; tái cấu trúc VNPT, thành lập Vietnam Post; phóng thành công vệ tinh Vinasat-1, khẳng định chủ quyền vũ trụ; cấp phép 3G, mở ra kỷ nguyên Internet di động; Quốc hội thông qua Luật Tần số vô tuyến điện và Luật Viễn thông; thúc đẩy hội nhập quốc tế trong lĩnh vực báo chí, xuất bản. Những quyết sách ấy đã đặt nền móng cho sự phát triển toàn diện của Bộ Thông tin và Truyền thông, đưa ngành tiến nhanh vào kỷ nguyên số.

Đồng chí Lê Doãn Hợp, Bộ trưởng Bộ Thông tin và Truyền thông giai đoạn 8/2007 - 8/2011.
Đồng chí Nguyễn Quân, Bộ trưởng Bộ Khoa học và Công nghệ giai đoạn từ tháng 8/2011 đến tháng 4/2016
Đồng chí Nguyễn Quân giữ cương vị Bộ trưởng Bộ KH&CN từ tháng 8/2011 đến tháng 4/2016, để lại dấu ấn đậm nét trong việc hoàn thiện thể chế và thúc đẩy đổi mới sáng tạo. Một cột mốc quan trọng là việc Quốc hội thông qua Luật KH&CN năm 2013, tạo khung pháp lý mới, mở đường cho hàng loạt chương trình KH&CN trọng điểm, nâng cao hiệu quả ứng dụng và đưa KH&CN trở thành động lực trực tiếp cho tăng trưởng kinh tế – xã hội.
Trong nhiệm kỳ này, đồng chí Nguyễn Quân đã thúc đẩy đổi mới cơ chế tài chính cho khoa học, bao gồm cơ chế tài trợ cạnh tranh, khoán chi theo kết quả nghiên cứu, ưu tiên nguồn lực cho các dự án trọng điểm và các doanh nghiệp KH&CN. Đồng chí cũng triển khai chính sách ưu đãi và trọng dụng nhà khoa học, thu hút chuyên gia người Việt và quốc tế về làm việc tại Việt Nam.

Đồng chí Nguyễn Quân, Bộ trưởng Bộ Khoa học và Công nghệ giai đoạn 8/2011 - 4/2016.
Đồng chí Nguyễn Quân cũng đặc biệt quan tâm đến việc xây dựng hệ sinh thái khởi nghiệp sáng tạo, tạo môi trường thuận lợi cho hàng nghìn doanh nghiệp khởi nghiệp sáng tạo, doanh nghiệp KH&CN hình thành, phát triển. Năm 2015, với tầm nhìn chiến lược, đồng chí đã chỉ đạo thành lập Viện Khoa học và Công nghệ Việt Nam - Hàn Quốc theo mô hình KIST của Hàn Quốc. Đây được xem là một trong những dấu ấn quan trọng nhất trong nhiệm kỳ của Bộ trưởng, đặt nền móng cho một viện nghiên cứu tầm quốc tế tại Việt Nam.
Đồng chí Huỳnh Thành Đạt, Bộ trưởng Bộ Khoa học và Công nghệ giai đoạn từ tháng 11/2020 đến tháng 02/2025
Giai đoạn từ tháng 11/2020 đến tháng 2/2025, dưới sự lãnh đạo của đồng chí Huỳnh Thành Đạt, Bộ KH&CN đã để lại nhiều dấu ấn quan trọng. Đồng chí Huỳnh Thành Đạt chú trọng phát triển khoa học cơ bản, khuyến khích nghiên cứu dài hạn gắn với giáo dục và đào tạo, đồng thời tiên phong kiến tạo chính sách chấp nhận rủi ro trong nghiên cứu khoa học như một điều kiện tất yếu để tạo ra đột phá; quan tâm hoàn thiện thể chế, đặc biệt là nâng tầm Quỹ Phát triển khoa học và công nghệ Quốc gia theo chuẩn quốc tế, coi đây là công cụ then chốt để thúc đẩy nghiên cứu và đổi mới sáng tạo phục vụ phát triển bền vững.

Đồng chí Huỳnh Thành Đạt, Bộ trưởng Bộ Khoa học và Công nghệ giai đoạn 11/2020 – 02/2025.
Một điểm nhấn nổi bật là việc công bố Chỉ số đổi mới sáng tạo cấp địa phương từ năm 2021, giúp 63 tỉnh, thành phố đo lường và nâng cao năng lực đổi mới sáng tạo dựa trên khung đánh giá quốc tế. Cùng với đó, Bộ Khoa học và Công nghệ đã tham mưu sửa đổi Luật KH&CN 2013, hướng tới cơ chế tự chủ cao hơn cho các tổ chức nghiên cứu, khuyến khích doanh nghiệp đầu tư R&D và gắn kết chặt chẽ KH&CN với phát triển kinh tế - xã hội.
Đồng chí Nguyễn Mạnh Hùng, Bộ trưởng Bộ Thông tin và Truyền thông giai đoạn từ tháng 7/2018 đến tháng 02/2025; từ tháng 3/2025, đồng chí Nguyễn Mạnh Hùng là Bộ trưởng Bộ Khoa học và Công nghệ
Trong giai đoạn 7/2018 - 02/2025, với cương vị Bộ trưởng Bộ Thông tin và Truyền thông, đồng chí Nguyễn Mạnh Hùng đã khởi xướng Chương trình Chuyển đổi số quốc gia, đưa viễn thông trở thành hạ tầng số quốc gia, thúc đẩy triển khai 5G, AI, dữ liệu lớn, an toàn an ninh mạng và khẳng định tinh thần "Make in Vietnam", giúp Việt Nam tự thiết kế, làm chủ sản phẩm công nghệ. Nhờ định hướng này, xếp hạng ICT của Việt Nam tăng 37 bậc, chính phủ số tăng 17 bậc, đưa Việt Nam vào nhóm quốc gia phát triển số nhanh nhất khu vực và thế giới. Dưới sự chỉ đạo của đồng chí Nguyễn Mạnh Hùng, hạ tầng bưu chính đã trở thành hạ tầng chất lượng quốc gia, như là giao thông, điện; định hình công nghiệp công nghệ số thành ngành mũi nhọn, gắn với bảo đảm chủ quyền số. Đồng thời, cũng định hình hạ tầng mới: Viễn thông chuyển thành hạ tầng số, bưu chính trở thành hạ tầng logistics quốc gia, phát triển công nghiệp công nghệ số thành ngành mũi nhọn, gắn với bảo đảm chủ quyền số. Các dấu mốc quan trọng giai đoạn này gồm: Năm 2020 là năm khởi động chuyển đổi số quốc gia. Năm 2021,tổng diễn tập chuyển đổi số chống dịch Covid-19. Năm 2022, phát triển các nền tảng số quốc gia. Năm 2023, năm dữ liệu số. Năm 2024: phát triển kinh tế số với 4 trụ cột: công nghiệp công nghệ thông tin; kinh tế số ngành; quản trị số và dữ liệu số.

Đồng chí Nguyễn Mạnh Hùng, Bộ trưởng Bộ Thông tin và Truyền thông giai đoạn từ tháng 7/2018 đến tháng 02/2025; từ tháng 3/2025, đồng chí Nguyễn Mạnh Hùng là Bộ trưởng Bộ KH&CN.
Từ ngày 01/3/2025, đồng chí Nguyễn Mạnh Hùng được giao trọng trách là người dẫn dắt sự hợp nhất lịch sử giữa Bộ KH&CN và Bộ TT&TT. Bộ KH&CN mới được xác định có sứ mệnh quan trọng, đưa Việt Nam vào giai đoạn phát triển mới - giai đoạn phát triển dựa trên KH,CN,ĐMST&CĐS, giai đoạn phát triển từ thu nhập trung bình cao trở thành thu nhập cao.
Bộ KH&CN mới được định vị là "đầu mối chiến lược" của 4 trụ cột then chốt: KH,CN,ĐMST&CĐS, với mục tiêu đưa KH&CN thành động lực trung tâm, đóng góp ít nhất 50% tăng trưởng GDP, góp phần đưa Việt Nam trở thành nước phát triển, có thu nhập cao. Đồng thời, thúc đẩy việc Việt Nam làm chủ các công nghệ chiến lược, tham mưu trình Chính phủ công bố 11 nhóm công nghệ trọng điểm; chuyển trọng tâm nghiên cứu cơ bản sang các cơ sở giáo dục đại học và phát triển công nghệ tại doanh nghiệp.
Trong hơn 6 tháng hợp nhất, 5 luật quan trọng do đồng chí Nguyễn Mạnh Hùng trực tiếp chỉ đạo đã được hoàn thiện, trình Quốc hội ban hành và trở thành nền tảng pháp lý cho hoạt động KH,CN,ĐMST&CĐS, tạo tiền đề thực hiện Nghị quyết 57 của Bộ Chính trị. Tiếp đó, đồng chí Nguyễn Mạnh Hùng cũng tiếp tục định hướng xây dựng, sửa đổi 4 luật khác trong năm 2025, gồm: Chuyển đổi số, Công nghệ cao, Sở hữu trí tuệ và Chuyển giao công nghệ, hoàn thành các mảnh ghép trong hệ sinh thái KH,CN,ĐMST&CĐS.
Đồng chí Nguyễn Mạnh Hùng khẳng định: Khoa học công nghệ mà hưng thịnh thì quốc gia mới hưng thịnh. Khoa học công nghệ mà mạnh thì quốc gia mới mạnh. Khoa học công nghệ không phải vì khoa học công nghệ mà phải vì sự hưng thịnh quốc gia, đóng góp cho nhân loại. Một quốc gia muốn trở thành cường quốc thì phải là cường quốc khoa học công nghệ. Một quốc gia muốn trở thành nước phát triển thì phải là một quốc gia có khoa học công nghệ phát triển.
Trong 80 năm qua, KHCN, BCVT đã luôn là trụ cột vững chắc, góp phần định hình diện mạo và tương lai đất nước.
Qua mỗi thời kỳ, mỗi giai đoạn lịch sử, các thế hệ lãnh đạo với tâm huyết và tầm nhìn chiến lược đã để lại dấu ấn sâu đậm, kiến tạo nền tảng bền vững cho sự phát triển KH,CN,ĐMST&CĐS ngày nay.
Sự hợp nhất lịch sử giữa hai Bộ mở ra một kỷ nguyên mới, khẳng định vai trò chiến lược của bộ ba KHCN,ĐMST&CĐS trong hành trình đưa Việt Nam tiến gần hơn tới mục tiêu trở thành quốc gia phát triển, hiện đại, thu nhập cao và hội nhập quốc tế.
Hướng về tương lai, ngành KHCN, BCVT sẽ tiếp tục giữ vai trò tiên phong, biến tri thức và công nghệ thành sức mạnh quốc gia, vì một Việt Nam thịnh vượng, hùng cường và hạnh phúc.