Theo dự thảo, Chương trình tập trung vào 6 nhóm công nghệ chiến lược có ý nghĩa đặc biệt quan trọng đối với tăng trưởng kinh tế, an ninh công nghệ quốc gia và quá trình chuyển đổi số gồm: mô hình ngôn ngữ lớn và trợ lý ảo tiếng Việt; AI Camera xử lý tại biên; robot di động tự hành; hệ thống và thiết bị mạng di động 5G; hạ tầng mạng blockchain cùng các lớp ứng dụng truy xuất nguồn gốc, tài sản mã hóa; và thiết bị bay không người lái (UAV). Bộ KH&CN là cơ quan chủ trì quản lý Chương trình trong giai đoạn 2025–2030.

Mô hình UAV tại Triển lãm quốc phòng quốc tế Việt Nam 2024.
Dự thảo nhấn mạnh mục tiêu phát triển năng lực quốc gia trong nghiên cứu, thiết kế, chế tạo và thương mại hóa các sản phẩm công nghệ chiến lược, hình thành các ngành công nghiệp nền tảng có khả năng cạnh tranh quốc tế và bảo đảm chủ quyền công nghệ. Thông qua 6 nhóm sản phẩm công nghệ chiến lược, làm chủ hoàn toàn các công nghệ lõi của 6 nhóm sản phẩm công nghệ chiến lược; xây dựng hệ sinh thái đổi mới sáng tạo quốc gia gắn kết viện, trường và doanh nghiệp, liên thông giữa khu vực công và tư, giữa dân dụng và quốc phòng; phát triển hạ tầng thử nghiệm, nhân lực và thể chế chính sách đặc thù nhằm đẩy nhanh quá trình nghiên cứu, phát triển, thử nghiệm và thương mại hóa sản phẩm công nghệ chiến lược; tăng tỷ lệ nội địa hóa và giá trị gia tăng trong nước, thay thế nhập khẩu và tiến tới xuất khẩu; đưa Việt Nam trở thành trung tâm nghiên cứu và phát triển (R&D), sản xuất các công nghệ lõi chiến lược hàng đầu khu vực Đông Nam Á vào năm 2030, góp phần thực hiện mục tiêu quốc gia về chuyển đổi số, phát triển kinh tế tri thức và bảo đảm an ninh công nghệ.
Chương trình đặt mục tiêu đến năm 2027, phấn đấu làm chủ từ 60 - 70% công nghệ lõi của 6 nhóm sản phẩm, hoàn thành giai đoạn nghiên cứu, giải mã công nghệ, xây dựng nguyên mẫu và sản phẩm thử nghiệm, đồng thời thiết lập một hệ thống các phòng thí nghiệm, cơ sở thử nghiệm và các trung tâm R&D trọng điểm. Dự thảo cũng đặt mục tiêu xây dựng cơ chế thử nghiệm chính sách (sandbox) cùng hệ thống tiêu chuẩn và quy chuẩn kỹ thuật cho các công nghệ mới, tạo nền tảng pháp lý cho việc triển khai, thử nghiệm và thương mại hóa.

Chương trình đặt mục tiêu đến năm 2027, phấn đấu làm chủ từ 60 - 70% công nghệ lõi của 6 nhóm sản phẩm.
Mục tiêu đến năm 2030, Việt Nam hướng tới làm chủ tối thiểu 80% công nghệ lõi của 6 nhóm sản phẩm công nghệ chiến lược, hình thành năng lực R&D, thiết kế, chế tạo và sản xuất quy mô công nghiệp, tiến tới tự chủ công nghệ, thay thế nhập khẩu, và tham gia sâu vào chuỗi giá trị toàn cầu.
Cụ thể, Chương trình đặt mục tiêu làm chủ tối thiểu 80% công nghệ lõi và làm chủ hoàn toàn thiết kế, tích hợp, quy trình chế tạo và sản xuất của sáu nhóm sản phẩm công nghệ chiến lược; hình thành các ngành công nghiệp công nghệ chiến lược có năng lực cạnh tranh quốc tế trong các lĩnh vực trí tuệ nhân tạo (AI), viễn thông, robot, UAV, blockchain và thiết bị thông minh, với tối thiểu 10 doanh nghiệp công nghệ Việt Nam đạt chuẩn quốc tế, trong đó có ít nhất 3 doanh nghiệp quy mô trên một tỷ USD.
Chương trình cũng hướng tới thương mại hóa rộng rãi các sản phẩm công nghệ chiến lược, đáp ứng phần lớn nhu cầu trong nước và mở rộng xuất khẩu ra khu vực và thế giới; phát triển đồng bộ hệ sinh thái đổi mới sáng tạo gồm hạ tầng thử nghiệm, trung tâm R&D, quỹ đầu tư và cơ chế thử nghiệm có kiểm soát, tạo môi trường thuận lợi cho phát triển công nghệ lõi; đào tạo tối thiểu 10.000 kỹ sư, nhà nghiên cứu và chuyên gia công nghệ lõi trong các lĩnh vực liên quan, hình thành mạng lưới nhân lực KH&CN chất lượng cao đáp ứng yêu cầu phát triển công nghiệp công nghệ cao giai đoạn 2025–2030. Mục tiêu cuối cùng là đưa Việt Nam trở thành trung tâm nghiên cứu, phát triển và sản xuất 6 nhóm công nghệ chiến lược hàng đầu khu vực Đông Nam Á, góp phần bảo đảm chủ quyền công nghệ, dữ liệu và an ninh quốc gia, đồng thời thúc đẩy tăng trưởng kinh tế dựa trên tri thức, công nghệ và đổi mới sáng tạo.
Việc ban hành Quyết định phê duyệt Chương trình được kỳ vọng tạo nền tảng pháp lý quan trọng để huy động nguồn lực quốc gia, thúc đẩy đổi mới sáng tạo và hình thành các ngành công nghiệp công nghệ cao mang tầm quốc tế.

