Đầu tư đồng bộ, tạo sinh kế bền vững cho vùng khó
Theo báo cáo của Sở Nông nghiệp và Môi trường Nghệ An, đến cuối năm 2024, tỷ lệ hộ nghèo toàn tỉnh đã giảm 3,64% so với năm 2021, đạt bình quân 1,21%/năm. Trong đó, vùng miền núi giảm bình quân 2,29%/năm, tương ứng 6,89% sau ba năm; riêng vùng đồng bào dân tộc thiểu số giảm mạnh 13,66%, hoàn thành vượt mức kế hoạch đề ra. Dự kiến đến năm 2025, tỷ lệ hộ nghèo toàn tỉnh chỉ còn 4,64%, vùng miền núi giảm thêm 8,58% so với đầu kỳ.
Để đạt được kết quả này, Nghệ An đã triển khai tổng thể 7 dự án và nhiều tiểu dự án thành phần, tập trung vào những nội dung trọng tâm, như: Đầu tư hạ tầng thiết yếu, hỗ trợ phát triển sinh kế, xây dựng mô hình giảm nghèo gắn với chuỗi giá trị, cải thiện dinh dưỡng, hỗ trợ nhà ở, giáo dục nghề nghiệp và việc làm bền vững. Các chính sách được thực hiện đồng bộ từ cấp tỉnh đến cơ sở, giúp giảm thiểu thiếu hụt trong tiếp cận các dịch vụ xã hội cơ bản như y tế, giáo dục, nước sạch và thông tin.
Nhiều công trình hạ tầng được đầu tư ở các huyện miền núi như Kỳ Sơn, Tương Dương, Quế Phong, Quỳ Châu, đã mở ra cơ hội phát triển mới cho người dân vùng cao. Đường giao thông liên bản, hệ thống thủy lợi, trường học, trạm y tế được cải thiện rõ rệt, góp phần thay đổi diện mạo nông thôn miền núi. Bên cạnh đó, các mô hình phát triển sinh kế được triển khai linh hoạt, từ trồng cây dược liệu, chăn nuôi gia súc tập trung đến sản xuất nông nghiệp hữu cơ, nông nghiệp công nghệ cao đã giúp nhiều hộ nghèo, cận nghèo có thêm việc làm và thu nhập ổn định.

Từ nguồn vốn Quỹ hỗ trợ giúp nông dân phát triển chăn nuôi, phát triển kinh tế.
Vẫn còn nhiều "nút thắt" cần tháo gỡ để đạt mục tiêu 2025
Tuy đạt được nhiều kết quả tích cực, song theo báo cáo của Sở Nông nghiệp và Môi trường, việc phân bổ và giải ngân vốn chương trình vẫn còn chậm. Thủ tục hành chính còn phức tạp, tỷ lệ giải ngân thấp so với kế hoạch, ảnh hưởng đến tiến độ và chất lượng thực hiện các dự án. Đội ngũ cán bộ cấp xã, lực lượng trực tiếp triển khai chương trình phần lớn mới được bố trí sau khi thực hiện mô hình chính quyền hai cấp, nên còn thiếu kinh nghiệm, lúng túng trong việc lập kế hoạch, tổng hợp báo cáo, cũng như triển khai các mô hình giảm nghèo cụ thể.
Ngoài ra, số lượng văn bản hướng dẫn từ Trung ương và tỉnh còn nhiều, đôi khi chồng chéo, gây khó khăn trong việc áp dụng thống nhất ở cơ sở. Một số dự án liên kết giữa doanh nghiệp và người dân vẫn hạn chế hiệu quả, khi doanh nghiệp chủ yếu quan tâm đến lợi nhuận ngắn hạn, còn người dân lại e ngại thay đổi phương thức sản xuất. Ở một vài địa phương, tư tưởng trông chờ, ỷ lại vào hỗ trợ của Nhà nước vẫn tồn tại, ảnh hưởng đến tính chủ động của cộng đồng trong công cuộc thoát nghèo.
Trước thực tế đó, Phó Chủ tịch HĐND tỉnh Nghệ An Nguyễn Như Khôi nhấn mạnh: "Chương trình có nhiều dự án nhỏ, cần giao cho chính người dân và địa phương lựa chọn nội dung hỗ trợ phù hợp với thực tế, tránh dàn trải. Phải gắn đào tạo nghề với tạo việc làm bền vững, nâng cao thu nhập, giúp người dân chủ động vươn lên."
Tỉnh tiếp tục lồng ghép nguồn lực giữa các chương trình mục tiêu quốc gia về giảm nghèo, xây dựng nông thôn mới, phát triển kinh tế - xã hội vùng dân tộc thiểu số và miền núi, qua đó tạo sức mạnh tổng hợp, hướng tới mục tiêu "không ai bị bỏ lại phía sau".
Kết quả hơn 3,6% hộ nghèo giảm trong ba năm qua là minh chứng cho hướng đi đúng đắn của Nghệ An, một hành trình không chỉ giúp người dân thoát nghèo về vật chất, mà còn mở ra cơ hội vươn lên về tri thức, kỹ năng và niềm tin. Từ đó, hình thành những cộng đồng tự chủ, năng động, sẵn sàng thích ứng với thay đổi của nền kinh tế thị trường, nền tảng quan trọng cho sự phát triển bền vững của tỉnh trong giai đoạn mới.

Kết quả hơn 3,6% hộ nghèo giảm trong ba năm qua là minh chứng cho hướng đi đúng đắn của Nghệ An.
Các chỉ tiêu giảm nghèo tại Mục tiêu cụ thể của Kế hoạch số 277/KH-UBND ngày 27/4/2022 của Ủy ban nhân dân tỉnh Nghệ An:
- Giai đoạn 2021-2025, phấn đấu giảm tỷ lệ hộ nghèo bình quân hàng năm từ 1-1,5%/năm, trong đó vùng miền núi 2-3%/năm;
- Tỷ lệ hộ nghèo trong đồng bào dân tộc thiểu số mỗi năm giảm trên 3,0%;
- Tỷ lệ hộ nghèo ở các huyện nghèo giảm từ 4-5%; phấn đấu đến cuối năm 2025 có từ 1-2 huyện nghèo trên địa bàn tỉnh thoát nghèo;
- Phấn đấu giảm 1/2 số hộ nghèo so với đầu kỳ theo chuẩn nghèo đa chiều của quốc gia.
- 100% các huyện nghèo được hỗ trợ đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng kinh tế - xã hội liên kết vùng, phục vụ dân sinh, sản xuất, thương mại, lưu thông hàng hóa và cung cấp các dịch vụ xã hội cơ bản; ưu tiên đầu tư cơ sở hạ tầng thiết yếu gồm: đường giao thông, trường học, cơ sở y tế, hạ tầng điện, công trình thủy lợi.
- Hỗ trợ xây dựng, nhân rộng trên 15-20 mô hình, dự án giảm nghèo hỗ trợ phát triển sản xuất, kinh doanh, dịch vụ, du lịch, khởi nghiệp, khởi sự kinh doanh nhằm tạo sinh kế, việc làm, thu nhập bền vững, thích ứng với biến đổi khí hậu, dịch bệnh cho hộ nghèo, hộ cận nghèo, hộ mới thoát nghèo; người dân sinh sống trên địa bàn huyện nghèo.
- Phấn đấu 80% người có khả năng lao động, có nhu cầu thuộc hộ nghèo, hộ cận nghèo trên địa bàn huyện nghèo được hỗ trợ nâng cao năng lực sản xuất nông, lâm, ngư, diêm nghiệp nhằm đổi mới phương thức, kỹ thuật sản xuất, bảo đảm an ninh lương thực, đáp ứng nhu cầu dinh dưỡng, tăng thu nhập.
- Phấn đấu hỗ trợ hộ nghèo, hộ cận nghèo có ít nhất 01 thành viên trong độ tuổi lao động có việc làm bền vững.
- 100% cán bộ làm công tác giảm nghèo được bồi dưỡng, tập huấn kiến thức, kỹ năng cơ bản về quản lý, tổ chức thực hiện các chương trình, chính sách, dự án giảm nghèo.

