Định hướng phát triển theo hướng hiện đại, tự chủ
Theo Tổ chức Y tế Thế giới (WHO), công nghiệp hóa dược là ngành sản xuất nền tảng, cung cấp nguyên liệu cho ngành dược phẩm và nhiều lĩnh vực khác như thực phẩm chức năng, dược mỹ phẩm, nông nghiệp, hóa chất. Tuy nhiên, tại Việt Nam, ngành này vẫn đang ở giai đoạn phát triển ban đầu, quy mô nhỏ, công nghệ hạn chế.
Số liệu từ Cục Hóa chất (Bộ Công Thương) cho thấy, nguồn nguyên liệu sản xuất thuốc trong nước mới đáp ứng khoảng 5% nhu cầu thuốc tân dược và 20% đối với thuốc đông dược, còn lại phần lớn vẫn phải nhập khẩu trong khi Việt Nam có lợi thế lớn về tài nguyên dược liệu. Cả nước có hơn 5.000 loài thực vật làm thuốc, nhiều loài quý hiếm như sâm Ngọc Linh, tam thất hoang, thông đỏ, hoàng liên gai... Nhiều vùng trồng dược liệu đã hình thành và mang lại hiệu quả rõ rệt, như sâm Ngọc Linh ở Kon Tum - Quảng Nam, quế và hồi ở Yên Bái, Lạng Sơn, thảo quả ở Lào Cai, nghệ ở Nghệ An. Tuy vậy, việc phát triển dược liệu vẫn còn manh mún, thiếu liên kết và chưa gắn với công nghiệp chế biến sâu.

Việt Nam có hơn 5.000 thực vật có thể làm dược liệu.
Nhằm từng bước nâng cao năng lực tự chủ về dược phẩm và nguyên liệu thuốc, ngày 17/3/2021 Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 376/QĐ-TTg phê duyệt "Chương trình phát triển công nghiệp dược và dược liệu sản xuất trong nước đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045". Chương trình đặt mục tiêu đến năm 2025, thuốc sản xuất trong nước đáp ứng 75% nhu cầu sử dụng và 60% giá trị thị trường; đến năm 2030 đạt 80% về số lượng và 70% về giá trị.
Thực hiện chủ trương đó, Bộ Khoa học và Công nghệ đã chủ trì xây dựng và triển khai Chương trình khoa học và công nghệ trọng điểm cấp quốc gia mã số KC.11/21-30 "Nghiên cứu ứng dụng và phát triển công nghệ tiên tiến phục vụ công nghiệp hóa dược và dược phẩm", được phê duyệt theo Quyết định số 1255/QĐ-BKHCN ngày 14/7/2022.
Chương trình KC.11/21-30 tập trung hỗ trợ nghiên cứu, ứng dụng và làm chủ các công nghệ tiên tiến trong tổng hợp, chiết xuất, tinh chế hoạt chất; phát triển quy trình sản xuất thuốc generic, thuốc từ dược liệu và sinh phẩm y tế; đồng thời khuyến khích doanh nghiệp đầu tư nghiên cứu - phát triển (R&D), hợp tác với các viện, trường trong và ngoài nước nhằm tạo ra sản phẩm có giá trị cao, chất lượng quốc tế.
Theo Bộ Khoa học và Công nghệ, đây là một trong những chương trình trọng điểm có vai trò "mở đường" cho việc hình thành ngành công nghiệp hóa dược hiện đại, dựa trên công nghệ cao và tri thức khoa học trong nước, qua đó giảm dần phụ thuộc nhập khẩu, tiến tới tự chủ về nguyên liệu thuốc.
Liên kết bốn nhà - phát triển chuỗi giá trị dược liệu
Để phát triển bền vững, ngành hóa dược cần có sự phối hợp đồng bộ giữa "bốn nhà": Nhà nước - Nhà khoa học - Nhà doanh nghiệp - Nhà nông. Trong đó, Nhà nước định hướng và hoàn thiện chính sách, Nhà khoa học nghiên cứu và chuyển giao công nghệ, doanh nghiệp đầu tư sản xuất - chế biến, còn người nông dân là chủ thể trực tiếp tạo ra vùng nguyên liệu chất lượng.
Một số mô hình liên kết đã cho kết quả tích cực, như hợp tác giữa doanh nghiệp dược với hợp tác xã và người dân trồng cây dược liệu theo chuẩn GACP-WHO. Sản phẩm dược liệu đạt chất lượng cao hơn, giá trị tăng, người dân có sinh kế ổn định, doanh nghiệp chủ động nguồn nguyên liệu đầu vào.
Để mở rộng mô hình này, cần có thêm chính sách khuyến khích đầu tư, hỗ trợ tài chính, ưu đãi thuế, đào tạo nhân lực và đầu tư hạ tầng cho các khu, cụm công nghiệp hóa dược. Việc hình thành vùng nguyên liệu dược liệu tập trung gắn với nhà máy chế biến, trung tâm nghiên cứu, kiểm nghiệm chất lượng sẽ giúp tạo chuỗi giá trị khép kín, giảm chi phí và nâng cao sức cạnh tranh của sản phẩm Việt Nam.
Công nghiệp hóa dược là lĩnh vực có giá trị gia tăng cao, lan tỏa mạnh sang nhiều ngành khác như hóa chất cơ bản, cơ khí chế tạo, nông nghiệp, y học. Khi năng lực sản xuất nguyên liệu trong nước được nâng cao, Việt Nam không chỉ giảm nhập khẩu mà còn có thể hướng tới xuất khẩu nguyên liệu và sản phẩm dược phẩm đạt chuẩn quốc tế.

Đến năm 2045, công nghiệp hóa dược của Việt Nam trở thành ngành công nghiệp công nghệ cao, hiện đại, có sức cạnh tranh và tham gia vào chuỗi giá trị ngành dược phẩm toàn cầu.
Theo định hướng của Bộ Khoa học và Công nghệ, thông qua Chương trình KC.11/21-30, các tổ chức nghiên cứu và doanh nghiệp trong nước sẽ được hỗ trợ phát triển công nghệ chiết xuất, tinh chế hoạt chất thiên nhiên, công nghệ sinh học dược, công nghệ nano và bào chế hiện đại, những yếu tố then chốt để hình thành sản phẩm thuốc và nguyên liệu thuốc "Made in Vietnam" có chất lượng cao, giá thành cạnh tranh.
Song song với việc phát triển công nghệ, cần đẩy mạnh xây dựng tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật, hỗ trợ doanh nghiệp đạt chứng nhận GMP-WHO, EU-GMP hoặc Japan-GMP; đồng thời tăng cường truyền thông, khuyến khích người dân sử dụng thuốc nội địa thông qua các chương trình như "Người Việt Nam ưu tiên dùng thuốc Việt Nam".
Việt Nam có đầy đủ điều kiện để phát triển ngành hóa dược tự chủ: Nguồn dược liệu phong phú, nhân lực y dược có trình độ, chính sách hỗ trợ từ Nhà nước, cùng với các chương trình nghiên cứu trọng điểm như KC.11/21-30. Điều quan trọng là phải kết nối hiệu quả giữa nghiên cứu - sản xuất - thị trường, thúc đẩy đổi mới sáng tạo và hợp tác quốc tế.
Khi những chính sách và chương trình khoa học công nghệ được triển khai đồng bộ, ngành công nghiệp hóa dược Việt Nam hoàn toàn có thể vươn lên, làm chủ công nghệ, chủ động nguồn nguyên liệu, đảm bảo an ninh thuốc, phát triển kinh tế - xã hội và khẳng định vị thế quốc gia trong chuỗi giá trị dược phẩm toàn cầu.

