Phát triển kinh tế xanh và kinh tế tuần hoàn trong thủy sản - hướng đi tất yếu cho phát triển bền vững

Chủ nhật, 26/10/2025 14:20

Thủy sản là một trong những ngành kinh tế mũi nhọn của Việt Nam, đóng góp quan trọng cho tăng trưởng xuất khẩu, sinh kế của hàng triệu lao động và an ninh lương thực quốc gia. Tuy nhiên, trước sức ép của biến đổi khí hậu, ô nhiễm môi trường và yêu cầu ngày càng khắt khe của thị trường thế giới về tiêu chuẩn phát triển bền vững, ngành thủy sản Việt Nam buộc phải chuyển đổi mô hình tăng trưởng.

Phát triển kinh tế xanh và kinh tế tuần hoàn trong lĩnh vực thủy sản đang trở thành hướng đi tất yếu, giúp nâng cao giá trị gia tăng, bảo vệ hệ sinh thái biển và thực hiện các cam kết quốc gia về phát thải ròng bằng "0" vào năm 2050.

Trên thế giới, các quốc gia có ngành thủy sản phát triển đều đang chuyển hướng mạnh sang mô hình kinh tế xanh và kinh tế tuần hoàn. Tổ chức Lương thực và Nông nghiệp của Liên Hợp Quốc đã ban hành chương trình "Chuyển đổi xanh trong thủy sản giai đoạn 2022–2031", tập trung vào ba nội dung chính: Phát triển hệ thống nuôi trồng tuần hoàn khép kín, giảm sử dụng hóa chất và kháng sinh trong sản xuất, đồng thời tăng cường quản lý và truy xuất nguồn gốc.

Chương trình Môi trường Liên Hợp Quốc cũng thúc đẩy sáng kiến "Kinh tế biển bền vững", kêu gọi các quốc gia tái cấu trúc ngành thủy sản theo hướng giảm rác thải nhựa đại dương, sử dụng hiệu quả năng lượng và tái chế phụ phẩm.

Tại châu Âu, Na Uy là hình mẫu tiêu biểu khi áp dụng công nghệ tuần hoàn trong toàn bộ chuỗi sản xuất cá hồi từ nuôi trồng, chế biến đến tái chế phụ phẩm thành dầu cá, bột cá, phân bón hữu cơ và năng lượng sinh học. Nhật Bản và Hàn Quốc phát triển mạnh công nghệ xử lý nước thải tuần hoàn, tái sử dụng nước nuôi trồng và sản xuất thức ăn từ phụ phẩm thủy sản. Ở khu vực Đông Nam Á, Thái Lan và Indonesia đã hình thành chuỗi sản xuất tuần hoàn khép kín, kết hợp nuôi trồng với sử dụng năng lượng tái tạo, giảm phát thải và giảm ô nhiễm đại dương.

Việt Nam đã sớm xác định phát triển kinh tế xanh và kinh tế tuần hoàn là một trong những trụ cột của tăng trưởng bền vững. Chiến lược Tăng trưởng xanh giai đoạn 2021-2030 và Luật Bảo vệ môi trường năm 2020 lần đầu tiên đưa khái niệm "kinh tế tuần hoàn" vào khung pháp lý, tạo cơ sở cho các ngành sản xuất triển khai thực tế.

Phát triển kinh tế xanh và kinh tế tuần hoàn trong thủy sản - hướng đi tất yếu cho phát triển bền vững- Ảnh 1.

Phát triển kinh tế xanh và kinh tế tuần hoàn trong thủy sản.

Trong lĩnh vực thủy sản, Chiến lược phát triển thủy sản Việt Nam đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045 nêu rõ mục tiêu: Công nghiệp hóa, hiện đại hóa ngành theo hướng thân thiện môi trường, gắn với kinh tế tuần hoàn và thích ứng biến đổi khí hậu. Chính phủ đã ban hành Nghị định quy định cơ chế khuyến khích đầu tư vào mô hình sản xuất xanh, ưu đãi tín dụng và thuế cho doanh nghiệp áp dụng công nghệ tái chế, xử lý chất thải.

Theo định hướng đến năm 2030, ngành thủy sản phấn đấu đạt kim ngạch xuất khẩu từ 14 đến 16 tỷ USD, trong đó các sản phẩm có chứng nhận xanh, truy xuất nguồn gốc và đạt tiêu chuẩn bền vững quốc tế sẽ chiếm trên 60%. Mục tiêu xa hơn là đến năm 2045, Việt Nam trở thành một trong ba quốc gia xuất khẩu thủy sản hàng đầu thế giới dựa trên nền tảng công nghệ cao, quản trị hiện đại và chuỗi giá trị xanh.

Dù định hướng rõ ràng, việc chuyển đổi sang kinh tế xanh và tuần hoàn trong thủy sản vẫn gặp không ít khó khăn. Chính sách đã ban hành nhưng còn thiếu sự đồng bộ giữa các ngành, địa phương và cơ quan thực thi. Một số quy định về hỗ trợ tín dụng xanh, tiêu chuẩn sản xuất sạch chưa cụ thể, khiến doanh nghiệp khó tiếp cận.

Hơn 90% doanh nghiệp thủy sản hiện nay là doanh nghiệp vừa và nhỏ, năng lực tài chính hạn chế, khó đầu tư vào công nghệ hiện đại hoặc xử lý chất thải khép kín. Cơ sở hạ tầng phục vụ tái chế phụ phẩm, xử lý nước thải và rác thải biển còn thiếu, trong khi nhiều vùng nuôi tập trung vẫn phát sinh ô nhiễm do chất thải hữu cơ chưa được kiểm soát hiệu quả.

Một vấn đề khác là trình độ công nghệ tái chế và chế biến sâu phụ phẩm còn thấp. Nhiều cơ sở vẫn xử lý theo phương thức thủ công, không đủ tiêu chuẩn môi trường và an toàn thực phẩm, dẫn đến lãng phí tài nguyên. Theo thống kê, mỗi năm Việt Nam tạo ra hơn một triệu tấn phụ phẩm thủy sản, nhưng mới chỉ khoảng 20% được tái sử dụng làm nguyên liệu đầu vào cho ngành khác.

Bên cạnh đó, nhận thức về kinh tế xanh trong cộng đồng doanh nghiệp và người dân vẫn chưa thật sâu rộng. Phần lớn ngư dân và cơ sở chế biến còn chú trọng lợi ích ngắn hạn, chưa coi bảo vệ môi trường là yếu tố bắt buộc để nâng cao sức cạnh tranh và mở rộng thị trường xuất khẩu.

Để vượt qua những thách thức trên, ngành thủy sản Việt Nam cần triển khai đồng bộ các giải pháp. Trước hết, phải hoàn thiện cơ chế, chính sách khuyến khích doanh nghiệp đầu tư công nghệ sạch, tiêu hao ít năng lượng, phát thải thấp và có khả năng tái sử dụng phụ phẩm. Các chính sách ưu đãi về thuế, tín dụng, và hỗ trợ đổi mới công nghệ cần được thiết kế cụ thể, khả thi hơn.

Song song với đó, cần đẩy mạnh đổi mới công nghệ, đặc biệt là công nghệ xử lý nước thải, công nghệ sinh học trong chế biến phụ phẩm và các mô hình nuôi trồng khép kín. Nhiều viện, trường và doanh nghiệp đã bước đầu làm chủ công nghệ chế biến sâu, biến phụ phẩm cá, tôm thành dầu, bột cá, collagen hoặc nguyên liệu dược phẩm có giá trị cao. Đây là hướng đi mang lại hiệu quả cả về kinh tế và môi trường.

Việc hình thành các khu công nghiệp chế biến thủy sản tuần hoàn tại Đồng bằng sông Cửu Long, Nam Trung Bộ và ven biển miền Trung sẽ tạo bước đột phá, giúp giảm áp lực môi trường, đồng thời nâng cao năng lực cạnh tranh. Cùng với đó, cần sớm đầu tư hệ thống quan trắc môi trường biển và cơ sở dữ liệu số quốc gia để giám sát nguồn lợi, rác thải và phát thải khí nhà kính trong toàn chuỗi sản xuất thủy sản.

Hợp tác quốc tế cũng là yếu tố quan trọng. Việt Nam cần tận dụng các chương trình hỗ trợ kỹ thuật của Liên Hợp Quốc, Tổ chức Lương thực và Nông nghiệp, các tổ chức hợp tác phát triển của Đức, Nhật Bản, Hàn Quốc để tiếp nhận công nghệ tiên tiến, đồng thời chia sẻ kinh nghiệm về quản lý và chứng nhận sản phẩm xanh.

Cuối cùng, cần tăng cường tuyên truyền, nâng cao nhận thức cộng đồng về sản xuất và tiêu dùng bền vững. Mỗi người dân, ngư dân và doanh nghiệp đều là chủ thể của quá trình chuyển đổi xanh. Khi nhận thức được rằng sản xuất xanh không chỉ bảo vệ môi trường mà còn mang lại lợi ích kinh tế lâu dài, quá trình chuyển đổi sẽ trở nên thực chất và bền vững hơn.

Trung tâm Truyền thông KH&CN

Cổng thông tin điện tử các đơn vị thuộc Bộ

Doanh nghiệp

Top