Năm 2023, Việt Nam có khoảng 530,3 nghìn ha sắn với sản lượng 10,6 triệu tấn, đứng trong nhóm quốc gia xuất khẩu sắn lớn nhất thế giới.
Tuy nhiên, câu chuyện về những giống sắn bản địa đặc sắc, có giá trị dinh dưỡng và tiềm năng thương mại cao vẫn chưa được khai thác xứng đáng. Trong số đó, giống sắn ruột vàng Phú Thọ (sắn nghệ) nổi bật bởi màu sắc đặc trưng, chất lượng củ ngon, giàu β-carotene và khả năng thích ứng rộng.
Nguồn gen bản địa quý hiếm với nhiều ưu thế vượt trội
Sắn ruột vàng Phú Thọ có hình thái dễ nhận diện: Thân cao 2 - 3 m, màu cam nhạt; lá xanh chia 7 thùy; cuống lá đỏ; củ có vỏ nâu, ruột vàng nhạt, khi chế biến chuyển vàng nghệ đẹp mắt. Phân tích dinh dưỡng cho thấy hàm lượng tinh bột đạt khoảng 25%, đồng thời chứa β-carotene mức cao (1,11 µg/g củ), chất chống oxy hóa quan trọng tốt cho sức khỏe người dùng. Nhờ hàm lượng HCN thấp, củ sắn ngọt, thơm và rất phù hợp cho chế biến thực phẩm tươi như luộc, hấp, nấu xôi hay làm các món bánh truyền thống.
Không chỉ có chất lượng tốt, giống sắn này còn có khả năng chống chịu sâu bệnh khá hơn nhiều giống phổ biến hiện nay, đây là yếu tố quan trọng trong bối cảnh biến đổi khí hậu khiến dịch hại trên cây sắn ngày càng gia tăng.
Nhận thấy tiềm năng đó, từ nhiều năm trước, Việt Nam đã phối hợp với các tổ chức quốc tế như IDRC (Canada), CIAT, Kopia và CIP để thu thập, bảo tồn và nghiên cứu nguồn gen sắn bản địa. Trong hệ thống nguồn gen ấy, sắn ruột vàng Phú Thọ được xác định là giống quý hiếm cần phục tráng và phát triển để vừa bảo tồn di truyền vừa tạo ra giá trị kinh tế cao hơn.

Sắn ruột vàng Phú Thọ cho giá trị gia tăng và phát triển bền vững.
Theo báo cáo tự đánh giá nhiệm vụ khoa học "Nghiên cứu khai thác, phát triển nguồn gen Sắn ruột vàng Phú Thọ tại một số tỉnh trung du, miền núi phía Bắc" (mã số NVQG-2021/ĐT.22) do Viện Cây lương thực và Cây thực phẩm chủ trì, nhóm nghiên cứu đã phục tráng thành công giống sắn ruột vàng Phú Thọ, hoàn thiện bản mô tả đặc tính nông sinh học và xây dựng quy trình nhân giống, quy trình canh tác phù hợp với điều kiện trung du miền núi phía Bắc. Đây được xem là bước tiến quan trọng, tạo nền tảng khoa học để khai thác giống bản địa quý theo hướng hiện đại và bền vững.
Nhóm nghiên cứu đã xác định được thời vụ trồng và thời điểm thu hoạch tối ưu đối với giống sắn ruột vàng Phú Thọ. Thời vụ thứ hai (15 - 20/2) và thu hoạch sau 8 - 9 tháng được xác định là cho năng suất và chất lượng củ cao nhất. Ở giai đoạn này, củ đạt độ đồng đều lớn: dài 26,6 - 31 cm, đường kính 2,47 - 3,06 cm - kích thước phù hợp với yêu cầu thị trường và chế biến.
Năng suất đạt trung bình 24,16 tấn/ha ở thời điểm thu hoạch 8 tháng và 26,18 tấn/ha ở thời điểm 9 tháng, con số vượt xa mức năng suất truyền thống 10 - 15 tấn/ha nêu trong mục tiêu của nhiệm vụ. Lợi nhuận thuần đạt 91,6 - 92,5 triệu đồng/ha, mức cao nhất trong các thời vụ thử nghiệm.
Kết quả mô hình sản xuất thử 30 ha tại Phú Thọ, Thái Nguyên và một số tỉnh miền núi phía Bắc cũng cho thấy năng suất củ loại 1 đạt 16,2 - 20 tấn/ha, trong đó Thái Nguyên đạt cao nhất 24,2 tấn/ha. Đây là mức tăng từ 43,8 - 61,7% so với diện tích trồng giống cũ ngoài mô hình, giúp nâng hiệu quả kinh tế lên 56% so với phương thức canh tác trước đây
Không chỉ dừng lại ở việc nâng cao năng suất, nhóm nghiên cứu còn hoàn thiện đồng bộ các sản phẩm khoa học gồm vườn giống gốc quy mô 1.000 cây/năm, 200.000 hom giống đạt chuẩn, quy trình nhân giống nhanh, quy trình canh tác an toàn bền vững và hướng dẫn kỹ thuật chế biến miến sắn, miến dong sắn đạt chuẩn ATVSTP. Những kết quả này có giá trị ứng dụng cao, giúp các địa phương chủ động mở rộng sản xuất, xây dựng vùng nguyên liệu ổn định và phát triển chuỗi chế biến theo hướng đa dạng sản phẩm.

TS Phạm Thị Thu Hà (phải) - chủ nhiệm đề tài - phấn khởi trước giống sắn phục tráng.
Từ nguồn gen bản địa đến sản phẩm đặc sản vùng miền
Một trong những điểm đáng chú ý của nhiệm vụ là hiệu quả xã hội. Thông qua các lớp tập huấn, hội nghị đầu bờ và hoạt động phối hợp với địa phương, nhóm nghiên cứu đã giúp cán bộ khuyến nông và nông dân tiếp cận các kiến thức kỹ thuật mới: kỹ thuật nhân giống, kiểm tra chất lượng củ và hom giống, quy trình canh tác bền vững. Đây là nền tảng quan trọng để nông dân có thể duy trì chất lượng giống và nâng cao thu nhập lâu dài.
Cây sắn vốn là cây "giảm nghèo" ở nhiều địa phương khi được nâng cấp bằng quy trình khoa học sẽ trở thành cây kinh tế có giá trị cao. Với lợi thế chống chịu tốt, ít sâu bệnh và nhu cầu chăm sóc thấp, sắn ruột vàng Phú Thọ đặc biệt phù hợp với điều kiện sản xuất tại vùng trung du, miền núi phía Bắc - nơi đất dốc, khô hạn và thiếu lao động.
Sự kết nối chặt chẽ giữa viện nghiên cứu, chính quyền địa phương và người dân không chỉ giúp lan tỏa kết quả đề tài mà còn tạo cơ sở để hình thành vùng sản xuất giống quy mô lớn, từng bước tham gia vào chuỗi giá trị của ngành công nghiệp chế biến sắn đang tăng trưởng nhanh trong những năm gần đây.
Sắn ruột vàng Phú Thọ mang trong mình nhiều ưu thế để trở thành nông sản chủ lực của địa phương: màu sắc đẹp, hàm lượng dinh dưỡng cao, phù hợp với chế biến thực phẩm và có thể phát triển thành sản phẩm OCOP. Các sản phẩm từ sắn như miến sắn, tinh bột nghệ sắn, bánh sắn - hoàn toàn có tiềm năng trở thành hàng hóa đặc trưng vùng trung du miền núi phía Bắc khi được chuẩn hóa quy trình và truy xuất nguồn gốc.
Đặc biệt, trong bối cảnh thị trường quốc tế quan tâm nhiều hơn đến các giống bản địa giàu chất chống oxy hóa, hàm lượng β-carotene của sắn ruột vàng mở ra cơ hội lớn cho các sản phẩm chế biến sâu, gắn với dinh dưỡng và sức khỏe.
Với những kết quả nghiên cứu bước đầu, giống sắn ruột vàng Phú Thọ không chỉ được bảo tồn thành công mà còn được mở ra con đường phát triển rộng hơn - từ phục tráng giống, xây dựng mô hình sản xuất, hoàn thiện quy trình kỹ thuật, đến tạo nền tảng cho phát triển sản phẩm thương mại. Đó cũng là mục tiêu quan trọng của Chương trình bảo tồn và sử dụng bền vững nguồn gen cấp quốc gia: biến những giá trị bản địa thành động lực tăng trưởng mới cho kinh tế nông nghiệp.
Với sự vào cuộc đồng bộ của ngành khoa học công nghệ, ngành nông nghiệp và các địa phương, giống sắn ruột vàng Phú Thọ có đầy đủ điều kiện để trở thành cây trồng mang lại giá trị kinh tế cao, góp phần bảo tồn nguồn gen quý, đa dạng hóa sinh kế và hướng đến một nền nông nghiệp xanh, bền vững và thích ứng với biến đổi khí hậu.

