Hồi sinh nguồn gen quý từ ký ức gian khó
Trong căn nhà nhỏ giữa lưng đồi ở xã Phú Bình (Thái Nguyên), đĩa sắn ruột vàng vừa luộc chín, nóng hổi và thơm mùi đặc trưng khiến ai nếm thử cũng phải xuýt xoa. Từng khúc sắn vàng tươi, dẻo quánh, thứ hương vị mà ông Ngọ Quang Năng vẫn nhớ như in từ thuở đói nghèo những năm 1990, nay đã được khôi phục và trở thành cây trồng ổn định ngay sau nhà.

Ông Ngọ Quang Năng, xã Phú Bình, tỉnh Thái Nguyên trồng sắn tại triền đồi sau nhà.
Giống sắn ruột vàng Phú Thọ được nhóm nghiên cứu Trung tâm Nghiên cứu và Phát triển Cây có củ (Viện Cây lương thực và Cây thực phẩm) phục tráng từ nguồn gen bản địa quý. Khác với giống sắn trắng trước đây, sắn ruột vàng có vị ngọt, dẻo, thơm, ruột chắc và đặc biệt giàu beta-caroten, tiền chất của vitamin A có lợi cho thị giác và hệ miễn dịch. Hàm lượng beta-caroten trung bình đạt 9,36 µg/g củ tươi, kết hợp hàm lượng amylose khoảng 16,12% khiến nó trở thành thực phẩm vừa ngon vừa bổ.
Nhiều năm bị lai tạp và thoái hóa trong dân, giống sắn này tưởng chừng biến mất. Nhưng từ những gợi ý ban đầu về một loại "sắn nghệ" từng trồng phổ biến ở Tam Nông (Phú Thọ), nhóm nghiên cứu đã miệt mài tìm kiếm, thu thập, rồi sàng lọc từng dòng. Từ năm 2020 đến nay, hơn 28 dòng được chọn lọc nhờ đặc tính sinh trưởng tốt, thân gọn, củ đều và ruột vàng đậm.
Nhóm nghiên cứu cho biết những thửa ruộng thử nghiệm được mở rộng dần: từ 0,2 ha năm 2022 lên 2,5 ha năm 2024 và thêm 1,7 ha năm 2025. Năng suất đạt 16,2-20 tấn/ha, riêng tại Thái Nguyên có nơi lên đến 24,2 tấn/ha - tăng tới 60% so với giống cũ.
Gắn với cuộc sống và sinh kế người dân
Sắn ruột vàng không chỉ mang lại giá trị dinh dưỡng mà còn mở hướng nâng thu nhập rõ rệt cho người trồng. Ông Ngọ Quang Năng tính toán: chi phí cho một sào chưa đến 1 triệu đồng, nhưng giá bán sắn tươi dao động 12.000-18.000 đồng/kg. Nhiều hộ có thể lãi 5 triệu đồng/sào, mức thu mà trồng lúa khó đạt được. "Một vụ sắn, nhà tôi thu cả trăm triệu. Vừa có cái ăn, vừa có cái bán", ông nói.

Kinh tế gia đình ông Năng ổn định hơn từ trồng sắn ruột vàng Phú Thọ.
Trên các vùng đất đồi nghèo dinh dưỡng, sắn ruột vàng tỏ ra phù hợp: ít công chăm bón, chịu hạn tốt, ít sâu bệnh sau khi được chọn lọc. Đặc biệt, hàm lượng HCN thấp hơn nhiều so với các giống sắn công nghiệp, cho phép ăn tươi mà không cần ngâm loại bỏ độc tố.
Không chỉ mang nghĩa kinh tế, giống sắn này còn gợi lại hình ảnh một thời cơm độn sắn của người trung du, khiến nhiều người dân gắn bó với nó bởi hương vị đặc trưng đã thành ký ức. Giờ đây, hương vị ấy trở thành giá trị mới, giúp bà con có thêm lựa chọn cây trồng trong bối cảnh biến đổi khí hậu.
Thách thức còn lại là tổ chức sản xuất theo chuỗi, gắn với chế biến và thị trường. Nhóm nghiên cứu đã đặt vấn đề sản xuất miến sắn hoặc chế biến các sản phẩm đặc sản để nâng giá trị. Với ưu thế dinh dưỡng và hương vị riêng biệt, sắn ruột vàng có tiềm năng trở thành sản phẩm hàng hóa đặc trưng của Phú Thọ, Thái Nguyên và các tỉnh trung du miền núi phía Bắc.
Từ phòng thí nghiệm đến nương đồi, từ ký ức đói nghèo đến sinh kế bền vững, sắn ruột vàng đang chứng minh rằng những nguồn gen bản địa nếu được gìn giữ và phát huy đúng cách hoàn toàn có thể trở thành động lực phát triển kinh tế cho người dân vùng đồi cằn.

