Điện thoại thông minh, trạm BTS và bước khởi đầu của xã hội số vùng cao
Từ năm 2023, tám xã, phường khu vực phía Bắc tỉnh được chọn làm điểm triển khai các mô hình chuyển đổi số cộng đồng. Chính quyền đã bắt đầu bằng những việc rất cụ thể, trao tận tay người dân thiết bị để bước vào thế giới số.

Địa hình đồi núi cao, chia cắt dân cư thưa thớt khiến nhiều thôn bản vùng cao Thái Nguyên thuộc diện lõm sóng viễn thông.
176 điện thoại thông minh được cấp miễn phí cho người dân khó khăn, 375 điện thoạiđược trao cho người có uy tín ở thôn, xóm. Họ là trưởng bản, bí thư chi bộ, già làng, trưởng dòng họ, là những người thường xuyên tiếp xúc với cộng đồng, có tiếng nói trong đời sống văn hóa, xã hội tại địa phương, khi họ sử dụng thành thạo dịch vụ số, việc vận động bà con làm theo trở nên thuyết phục hơn nhiều.
Bên cạnh hỗ trợ thiết bị, hạ tầng viễn thông được chú trọng đầu tư. Trạm BTS mới của Viettel được dựng lên giữa xóm người Dao Ba Họ (xã Yên Trạch), giúp những nơi trước đây "chỉ có rừng và đá" nay bắt được sóng 4G ổn định. Tại trung tâm các xã, băng thông Internet cũng được nâng cấp, phục vụ người dân đến giải quyết thủ tục hành chính, tra cứu thông tin, sử dụng dịch vụ công.
Những thay đổi đó dần xóa đi hình ảnh vùng cao "lõm sóng" trên bản đồ số. Người dân có thể gọi video cho con cháu đi làm xa, nhận thông báo từ ngân hàng, từ cơ quan bảo hiểm, từ trường học ngay trên điện thoại. Những dịch vụ vốn được coi là "chuyện ở đâu đó dưới xuôi" bắt đầu xuất hiện trong nếp sinh hoạt thường ngày.
Từ "bình dân học vụ số" đến "bình dân học AI"
Có thiết bị và sóng, nhưng nếu không biết sử dụng thì mọi thứ vẫn chỉ dừng ở tiềm năng. Bởi vậy, Thái Nguyên lựa chọn cách tiếp cận "học từ cơ sở".
Các lớp tập huấn chuyển đổi số cộng đồng được tổ chức tại xã, tại nhà văn hóa thôn, xóm. Định Hóa là địa phương đầu tiên được chọn thí điểm. Gần 150 thành viên nòng cốt, là đại diện các tổ công nghệ số cộng đồng ngồi kín hội trường. Họ không chỉ là thanh niên rành về công nghệ, mà còn có những bác trung niên, những người cao tuổi vốn quen với nương rẫy, nương ngô.
Nội dung tập huấn được thiết kế theo hướng "giảm lý thuyết, tăng thực hành", cầm điện thoại lên, cài ứng dụng C-TháiNguyen, thử gửi một phản ánh về tình trạng đường xấu, rác chưa dọn; mở Cổng dịch vụ công, đăng ký thử một thủ tục đơn giản; kích hoạt tài khoản VNeID, làm quen với thanh toán không tiền mặt. Những khái niệm như "định danh điện tử", "dịch vụ công trực tuyến", "phản ánh hiện trường" được chuyển thành thao tác cụ thể, nhìn thấy ngay trên màn hình.

Các tổ công nghệ số cộng đồng phát huy vai trò tại các thôn bản.
Cùng với "bình dân học vụ số", phong trào "Bình dân học AI" cũng được triển khai. Gần 400.000 người dân toàn tỉnh đã tham gia các hoạt động trải nghiệm trí tuệ nhân tạo ở mức cơ bản, dùng AI để tra cứu kiến thức, dịch ngôn ngữ, soạn thảo văn bản, thiết kế một mẫu tờ rơi đơn giản. Với nhiều người vùng cao, đây là lần đầu tiên họ tiếp xúc với khái niệm AI, nhưng việc trực tiếp "bấm, thử, xem kết quả" đã xóa dần khoảng cách giữa cái mới và sự e dè.
Mục tiêu không phải biến tất cả thành chuyên gia công nghệ, mà là giúp họ hiểu: công nghệ có thể là "trợ lý" hữu ích, không phải thứ gì đó quá xa vời.
Tổ công nghệ số cộng đồng - "cầu nối" giữa chính quyền và người dân
Thái Nguyên đã xây dựng mô hình Tổ công nghệ số cộng đồng tại hầu hết xã, phường. Mỗi thôn, xóm cử 3-4 người tham gia, sau đó quay về trở thành lực lượng nòng cốt ở cơ sở.
Từ những lớp học đầu tiên ở Định Hóa, mô hình nhanh chóng được nhân rộng sang Phú Lương và nhiều địa phương khác. Dự kiến đến cuối năm 2025 sẽ có khoảng 1.800 học viên tham gia tập huấn; mục tiêu đến năm 2026 hình thành đội ngũ gần 5.000 "hạt nhân số" trên toàn tỉnh.
Họ là những người mà bà con có thể tìm đến bất cứ lúc nào: nhờ đăng ký thủ tục hành chính trực tuyến, cài chữ ký số, nộp hồ sơ nhận trợ cấp, tra cứu thông tin bảo hiểm, hay đơn giản là kiểm tra xem tin nhắn "trúng thưởng" có phải lừa đảo hay không.
Ở xã Phú Lương, chị Lường Thị Hồng Nhung, một trong những thành viên tổ công nghệ số, chia sẻ, sau tập huấn, chị ý thức rõ trách nhiệm của mình: "Nếu mình hiểu nhưng không hướng dẫn lại cho bà con thì buổi học chỉ dừng ở kiến thức cá nhân. Điều quan trọng là cả xóm đều biết cách dùng điện thoại để phục vụ cuộc sống, không ngại công nghệ nữa".
Đối với chính quyền cơ sở, tổ công nghệ số cộng đồng được xem là "cánh tay nối dài" trong tiến trình chuyển đổi số, đặc biệt khi tỉnh triển khai mô hình chính quyền hai cấp. Khi người dân có thể làm nhiều thủ tục ngay tại nhà, áp lực tại bộ phận một cửa giảm xuống, cán bộ có điều kiện tập trung vào những việc chuyên môn sâu hơn.
Dù đạt nhiều kết quả tích cực, các địa phương vùng cao vẫn đối diện với những rào cản không nhỏ. Theo Sở Khoa học và Công nghệ, toàn tỉnh còn hàng chục thôn, bản "lõm sóng" di động, một số nơi chưa có điện lưới, hơn một trăm điểm dân cư chưa được kết nối cáp quang. Địa hình bị chia cắt, dân cư thưa thớt khiến chi phí đầu tư hạ tầng rất lớn.
Hạ tầng không phải là thách thức duy nhất. Ở nhiều nơi, thành viên tổ công nghệ số là người lớn tuổi, trình độ công nghệ thông tin hạn chế. Trình độ tiếng Việt của một bộ phận đồng bào dân tộc thiểu số còn hạn chế, khiến việc sử dụng các ứng dụng tiếng Việt gặp khó khăn. Một số người dân chưa phân biệt được tin thật, tin giả, ít quan tâm đến việc bảo vệ dữ liệu cá nhân, dễ trở thành mục tiêu của các chiêu trò lừa đảo trực tuyến.
Ông Hà Văn Huấn, Phó Chủ tịch UBND xã Côn Minh, nhìn nhận: "Chúng tôi muốn thúc đẩy chuyển đổi số, nhưng vướng từ hạ tầng tới con người. Một số thôn chưa có sóng, nhiều người chưa quen với điện thoại thông minh, nên tiến độ không thể nhanh như vùng thuận lợi".
Để tháo gỡ, Sở Khoa học và Công nghệ đã phối hợp các doanh nghiệp viễn thông khảo sát toàn bộ hiện trạng sóng di động, Internet tại các vùng khó. Trên cơ sở đó, tỉnh kiến nghị trung ương và Quỹ Dịch vụ viễn thông công ích hỗ trợ, đồng thời kêu gọi doanh nghiệp mở rộng vùng phủ sóng, lắp đặt cáp quang đến các điểm đặc biệt khó khăn. Lộ trình phủ sóng 100% thôn, bản đang được xây dựng theo từng giai đoạn, ưu tiên những điểm "trắng" hoàn toàn về dịch vụ viễn thông.
Công nghệ gắn với sinh kế và đời sống
Chuyển đổi số ở vùng cao chỉ có ý nghĩa khi người dân thấy được lợi ích cụ thể trong đời sống, sản xuất. Từ chỗ sản phẩm chỉ bán quanh xã, quanh huyện, anh Đặng Hành Dũng, chủ trang trại cá tầm, cá hồi tại thôn Phiêng Phàng (xã Thượng Minh), học cách sử dụng mạng xã hội, kết nối với các nhóm khách hàng ở thành phố, hợp tác với doanh nghiệp du lịch để tổ chức trải nghiệm tham quan trang trại. Hình ảnh, video về mô hình nuôi cá ở vùng núi cao được chia sẻ rộng rãi, đơn hàng dần tăng lên.
Theo anhĐặng Hành Dũng, nếu không có chuyển đổi số, việc quảng bá một mô hình ở nơi xa xôi như Phiêng Phàng sẽ rất khó khăn. Giờ đây, trang trại vừa bán được sản phẩm, vừa trở thành điểm đến du lịch sinh thái nhỏ, thu hút khách đến nghỉ, trải nghiệm.
Ở các vùng trồng chè, người dân áp dụng công nghệ số để ghi chép nhật ký sản xuất, kết nối với thương lái, tham gia các buổi livestream bán hàng mùa vụ. Các hợp tác xã vùng cao thì sử dụng mã QR để truy xuất nguồn gốc, tham gia sàn thương mại điện tử, thanh toán không dùng tiền mặt. Nhiều nông dân quen với đồng ruộng nay có thể tự mở điện thoại kiểm tra đơn hàng, trò chuyện với khách từ nhiều tỉnh, thành.
Chuyển đổi số ở vùng cao Thái Nguyên là hành trình nhiều tầng: đầu tư hạ tầng, trang bị thiết bị, tổ chức tập huấn, xây dựng đội ngũ nòng cốt, thay đổi nhận thức, gắn công nghệ với đời sống. Con đường ấy còn dài, còn không ít khó khăn về nguồn lực, ngôn ngữ, khoảng cách địa lý.
Tuy nhiên, với những bước đi bài bản, từ cấp phát điện thoại, phủ sóng viễn thông, mở lớp "bình dân học vụ số", triển khai "Bình dân học AI", đến hình thành các tổ công nghệ số cộng đồng, Thái Nguyên đang quyết tâm đưa công nghệ đến tận thôn, bản.
Mỗi người dân biết dùng dịch vụ công trực tuyến, mỗi hộ vùng cao biết bán nông sản qua mạng, mỗi tổ công nghệ số cộng đồng hoạt động hiệu quả… đều là một bước nhỏ nhưng chắc chắn trên con đường thu hẹp khoảng cách số giữa miền núi và đô thị, giữa đồng bào dân tộc thiểu số và vùng thuận lợi./.

