Tại Việt Nam, cùng với các nghị quyết và chiến lược lớn về biến đổi khí hậu, tăng trưởng xanh, quy hoạch năng lượng, đô thị thông minh và chuyển đổi số, hệ thống Tiêu chuẩn quốc gia (TCVN) đang từng bước kiến tạo nền tảng kỹ thuật cho một nền kinh tế xanh, phát thải thấp và phát triển bền vững.
Trong hơn một thập kỷ qua, Đảng và Nhà nước đã ban hành nhiều chủ trương, chính sách mang tính định hình tiến trình chuyển đổi xanh của Việt Nam, như Nghị quyết số 24-NQ/TW về chủ động ứng phó với biến đổi khí hậu, tăng cường quản lý tài nguyên và bảo vệ môi trường; Chiến lược quốc gia về tăng trưởng xanh giai đoạn 2021–2030, tầm nhìn đến 2050 theo Quyết định số 1658/QĐ-TTg; cam kết đạt mức phát thải ròng bằng “0” vào năm 2050 tại COP26; cùng hàng loạt chương trình, đề án lớn về đô thị thông minh, chuyển đổi số quốc gia và quy hoạch tổng thể năng lượng.
Trên nền tảng chính sách đó, tiêu chuẩn nổi lên như công cụ kỹ thuật then chốt. Các TCVN giúp cụ thể hóa mục tiêu, chỉ tiêu và yêu cầu của chính sách thành những quy định có thể đo lường và đánh giá được; tạo nên “ngôn ngữ chung” giữa cơ quan quản lý, doanh nghiệp, tổ chức đánh giá và người tiêu dùng trong các vấn đề môi trường, năng lượng, phát thải, kinh tế tuần hoàn; đồng thời hỗ trợ quá trình chuyển dịch mô hình sản xuất và tiêu dùng theo hướng xanh hơn, sạch hơn và tiết kiệm tài nguyên hơn.
Tiêu chuẩn không chỉ đóng vai trò hướng dẫn kỹ thuật cho khuôn khổ pháp luật mà ngày càng được sử dụng như công cụ trực tiếp hỗ trợ hoạch định chính sách, từ dán nhãn năng lượng, mua sắm công xanh, thiết kế cơ chế thị trường carbon đến bộ chỉ số đô thị thông minh và đô thị bền vững.

Đến nay, Việt Nam đã xây dựng hơn 14.200 TCVN, với tỷ lệ hài hòa tiêu chuẩn quốc tế đạt khoảng 63%, bao trùm hầu hết lĩnh vực kinh tế – xã hội. Khoảng 400 trong số đó liên quan trực tiếp đến tăng trưởng xanh, chuyển đổi xanh và phát triển bền vững, trải rộng trên các lĩnh vực quản lý môi trường, kiểm kê và giảm phát thải khí nhà kính; sử dụng năng lượng hiệu quả; phát triển năng lượng tái tạo như điện gió, điện mặt trời, pin lưu trữ và pin nhiên liệu; nông nghiệp bền vững và sản xuất hữu cơ; kinh tế tuần hoàn và tái chế; đô thị thông minh, giao thông sạch; cùng các dạng nhiên liệu xanh của tương lai. Hầu hết các tiêu chuẩn này được xây dựng trên cơ sở hài hòa với tiêu chuẩn quốc tế và khu vực, vừa đáp ứng yêu cầu quản lý trong nước, vừa tạo điều kiện cho doanh nghiệp tham gia sâu hơn vào chuỗi giá trị toàn cầu, giảm thiểu rào cản kỹ thuật trong thương mại.
Trong nhóm tiêu chuẩn về quản lý môi trường và khí nhà kính, gần 30 TCVN về quản lý môi trường, 13 TCVN về khí nhà kính và gần 30 TCVN về xử lý, tái sử dụng nước và chất thải được phát triển dựa trên các bộ tiêu chuẩn ISO 14000, ISO 14064, ISO 46001.
Các tiêu chuẩn này đặt nền tảng cho hệ thống quản lý môi trường tại doanh nghiệp và địa phương, hỗ trợ kiểm kê và giảm phát thải khí nhà kính, tạo cơ sở kỹ thuật cho thị trường carbon và tiếp cận tài chính xanh, qua đó kết nối mục tiêu Net Zero quốc gia với hành động thực tế tại từng cơ sở sản xuất.
Trong lĩnh vực sử dụng năng lượng hiệu quả, hơn 40 TCVN, gồm 37 tiêu chuẩn về hiệu suất năng lượng cho thiết bị gia dụng, thương mại và công nghiệp, cùng bộ TCVN ISO 50001 về hệ thống quản lý năng lượng, đã định hình khung quản lý và thúc đẩy chuyển đổi thiết bị sang công nghệ tiết kiệm năng lượng. Các tiêu chuẩn này hỗ trợ chính sách dán nhãn năng lượng, loại bỏ dần thiết bị lạc hậu và giúp giảm cường độ phát thải mà không gây cản trở tăng trưởng.
Năng lượng tái tạo cũng là lĩnh vực có tốc độ tiêu chuẩn hóa nhanh. Việt Nam đã ban hành 34 TCVN về điện gió, 40 về điện mặt trời, 18 về pin lưu trữ và 7 về pin nhiên liệu, phần lớn được hài hòa với tiêu chuẩn IEC 61400, IEC 62933 và nhiều bộ tiêu chuẩn quốc tế khác.
Các tiêu chuẩn này cung cấp khung an toàn và đánh giá chất lượng thiết bị, yêu cầu kết nối và vận hành nguồn tái tạo vào lưới điện, tạo nền tảng kỹ thuật cho quá trình chuyển dịch năng lượng theo định hướng của Quy hoạch tổng thể năng lượng quốc gia.
Trong nông nghiệp, bộ tiêu chuẩn về nông nghiệp hữu cơ (TCVN 11041), VietGAP cho trồng trọt, chăn nuôi, thủy sản, cùng hệ thống tiêu chuẩn về an toàn thực phẩm và truy xuất nguồn gốc đã góp phần giảm sử dụng hóa chất độc hại, bảo vệ tài nguyên và đa dạng sinh học, đồng thời nâng cao chất lượng nông sản và mở rộng cơ hội xuất khẩu. Đây là nền tảng quan trọng cho chuyển đổi sang nông nghiệp sinh thái và nông nghiệp tuần hoàn – một trong ba trụ cột chiến lược phát triển nông nghiệp Việt Nam.
Kinh tế tuần hoàn cũng được hỗ trợ bởi nhóm TCVN về thiết kế bao bì xanh, ghi nhãn, tái chế và quản lý chất thải. Cùng với đó, các tiêu chuẩn về đánh giá vòng đời sản phẩm, thiết kế sinh thái, vật liệu tái chế và tái sử dụng phế thải công nghiệp giúp doanh nghiệp chuyển sang mô hình sản xuất tuần hoàn, giảm phát thải và tối ưu chi phí.
Trong lĩnh vực đô thị thông minh, đến tháng 8/2025 đã có 32 TCVN được công bố, tương thích với nhiều tiêu chuẩn quốc tế như ISO 37120, ISO 37122, ISO 37123 và ISO 37106.
Các tiêu chuẩn này đưa ra bộ chỉ số đánh giá đô thị thông minh và bền vững, hỗ trợ quy hoạch và quản lý hạ tầng, giao thông, năng lượng và môi trường, bảo đảm sự kết nối giữa mục tiêu “thông minh”, “xanh” và “bền vững”.
Với giao thông xanh, hệ thống TCVN về xe điện, pin và trạm sạc đang tạo tiền đề kỹ thuật cho lộ trình điện hóa giao thông. Việt Nam cũng đang từng bước tiếp cận và hài hòa tiêu chuẩn về hydro và nhiên liệu xanh mới theo hướng của ISO/TC197 và IEC TC105, chuẩn bị cho các giai đoạn giảm phát thải sâu hơn trong tương lai.
Nhìn tổng thể, hệ thống TCVN đang đóng góp thiết thực cho tăng trưởng xanh thông qua việc giảm chi phí năng lượng, nâng cao năng suất, mở rộng thị trường xuất khẩu, hỗ trợ doanh nghiệp đổi mới công nghệ và nâng cao nhận thức cộng đồng về tiêu dùng bền vững. Tuy nhiên, trước sự phát triển nhanh của các lĩnh vực mới như nhiên liệu xanh, kinh tế tuần hoàn nâng cao, đô thị thông minh tích hợp sâu công nghệ số, thị trường carbon hay quản lý dữ liệu môi trường, công tác tiêu chuẩn hóa vẫn đối mặt với nhiều thách thức, từ khoảng trống tiêu chuẩn đến hạn chế về nguồn lực, năng lực thử nghiệm và khả năng tiếp cận tiêu chuẩn của doanh nghiệp nhỏ và vừa.
Trong giai đoạn tới, phát triển hệ thống tiêu chuẩn quốc gia phục vụ chuyển đổi xanh cần được triển khai theo hướng tổng thể và liên ngành, bảo đảm sự thống nhất giữa tiêu chuẩn, đo lường và đánh giá sự phù hợp. Ưu tiên cần dành cho các lĩnh vực chiến lược như năng lượng mới, vật liệu tái chế, quản lý carbon, giao thông xanh, đô thị thông minh và kinh tế tuần hoàn; đồng thời đẩy mạnh hợp tác quốc tế để hài hòa tiêu chuẩn và rút ngắn thời gian triển khai. Việc tăng cường năng lực ban kỹ thuật, đầu tư cho hạ tầng thử nghiệm và hỗ trợ doanh nghiệp áp dụng tiêu chuẩn là giải pháp quan trọng để nâng cao năng lực cạnh tranh.
Tiêu chuẩn không chỉ là “hàng rào kỹ thuật”, mà quan trọng hơn, là “đường băng kỹ thuật” để Việt Nam cất cánh trên quỹ đạo tăng trưởng xanh, hiện thực hóa cam kết Net Zero và khẳng định vị thế trong chuỗi giá trị toàn cầu xanh, sạch và bền vững.

