Trong hơn một thập kỷ qua, Đảng và Nhà nước đã ban hành nhiều chủ trương, chính sách có tính định hình tiến trình chuyển đổi xanh, từ Nghị quyết số 24-NQ/TW về chủ động ứng phó biến đổi khí hậu, đến Chiến lược quốc gia về tăng trưởng xanh giai đoạn 2021–2030, tầm nhìn 2050, cùng các chương trình lớn về đô thị thông minh, chuyển đổi số và quy hoạch tổng thể năng lượng.
Trên nền tảng chính sách đó, tiêu chuẩn nổi lên như công cụ kỹ thuật then chốt giúp cụ thể hóa các mục tiêu thành quy định đo lường được, tạo “ngôn ngữ chung” giữa các bên liên quan và hỗ trợ chuyển dịch mô hình sản xuất – tiêu dùng theo hướng xanh, sạch, tiết kiệm tài nguyên và có trách nhiệm hơn với môi trường.
Không chỉ giữ vai trò hướng dẫn kỹ thuật, tiêu chuẩn ngày càng tham gia trực tiếp vào hoạch định chính sách, từ dán nhãn năng lượng, mua sắm công xanh đến cơ chế thị trường carbon hay bộ chỉ số đô thị thông minh.
Đến nay, Việt Nam đã ban hành hơn 14.200 TCVN với tỷ lệ hài hòa khoảng 63% so với tiêu chuẩn quốc tế, bao trùm hầu hết lĩnh vực kinh tế – xã hội. Khoảng 400 trong số đó liên quan trực tiếp đến tăng trưởng xanh, chuyển đổi xanh và phát triển bền vững, trải rộng từ quản lý môi trường, sử dụng năng lượng hiệu quả, năng lượng tái tạo, nông nghiệp bền vững đến kinh tế tuần hoàn, đô thị thông minh và năng lượng mới.
Trong nhóm tiêu chuẩn về quản lý môi trường và khí nhà kính, các bộ tiêu chuẩn dựa trên ISO 14000, ISO 14064 hay ISO 46001 đang tạo nền tảng để doanh nghiệp xây dựng hệ thống quản lý môi trường, thực hiện kiểm kê và giảm phát thải, chuẩn bị cho thị trường carbon trong nước và kết nối với nguồn tài chính xanh quốc tế. Nhờ đó, tiêu chuẩn trở thành cầu nối giữa cam kết Net Zero cấp quốc gia và hành động cụ thể của từng cơ sở sản xuất – kinh doanh.
Ở lĩnh vực sử dụng năng lượng hiệu quả, hơn 40 TCVN, trong đó có 37 tiêu chuẩn về hiệu suất năng lượng – đã góp phần định hình khung quản lý năng lượng cho các cơ sở tiêu thụ lớn, thúc đẩy đổi mới công nghệ và hỗ trợ chính sách dán nhãn năng lượng. Đây cũng là công cụ hiệu quả giúp giảm cường độ phát thải trên mỗi đơn vị GDP mà vẫn duy trì tăng trưởng.
Năng lượng tái tạo là một trong những lĩnh vực có tốc độ tiêu chuẩn hóa nhanh nhất. Việt Nam hiện có hàng chục tiêu chuẩn về điện gió, điện mặt trời, pin lưu trữ và pin nhiên liệu, được xây dựng hài hòa với các bộ IEC. Những tiêu chuẩn này quy định yêu cầu về an toàn, thử nghiệm, kết nối và vận hành nguồn năng lượng tái tạo, tạo “hạ tầng mềm” quan trọng trong quá trình thực thi Quy hoạch tổng thể năng lượng quốc gia và tăng tỷ trọng năng lượng sạch.
Trong nông nghiệp, chuyển đổi xanh được phản ánh rõ qua các bộ TCVN về nông nghiệp hữu cơ, VietGAP trong trồng trọt, chăn nuôi, thủy sản, hệ thống truy xuất nguồn gốc và an toàn thực phẩm. Nhờ đó, việc giảm hóa chất độc hại, bảo vệ đất – nước – đa dạng sinh học trở nên bài bản hơn, đồng thời mở rộng cơ hội xuất khẩu cho nông sản sạch và hữu cơ của Việt Nam.
Kinh tế tuần hoàn – một trụ cột quan trọng của tăng trưởng xanh – đang được hỗ trợ bởi các tiêu chuẩn về thiết kế bao bì xanh, ghi nhãn, tái chế, thu hồi và quản lý nhựa. Song song là các tiêu chuẩn đánh giá vòng đời sản phẩm, thiết kế sinh thái hay sử dụng vật liệu tái chế, giúp doanh nghiệp chuyển đổi mô hình sản xuất theo hướng tuần hoàn, giảm chất thải và tiết kiệm chi phí.

Trong khi đó, hệ thống tiêu chuẩn về đô thị thông minh và giao thông xanh đang hình thành nền tảng kỹ thuật cho quản lý hạ tầng đô thị, năng lượng, giao thông và môi trường trong tương lai.
Bộ Khoa học và Công nghệ đã công bố hơn 30 TCVN liên quan, nhiều trong số đó tương đương các bộ tiêu chuẩn quốc tế như ISO 37120 hay ISO 37122.
Đối với lĩnh vực giao thông, các tiêu chuẩn về xe điện, pin lưu trữ và trạm sạc góp phần quan trọng cho lộ trình điện hóa phương tiện vận tải. Dù tiêu chuẩn về hydro và nhiên liệu xanh còn hạn chế, việc chủ động tiếp cận tiêu chuẩn quốc tế là bước chuẩn bị cho giai đoạn phát triển các-bon thấp sâu hơn trong tương lai.
Có thể khẳng định rằng, hệ thống TCVN hiện nay đang đóng góp thiết thực cho tăng trưởng xanh tại Việt Nam, giúp giảm chi phí năng lượng, tăng năng suất, mở rộng thị trường xuất khẩu và nâng cao năng lực công nghệ cho doanh nghiệp.
Tuy nhiên, trước tốc độ phát triển nhanh của các ngành mới như năng lượng xanh, đô thị thông minh tích hợp số, thị trường carbon hay quản lý dữ liệu môi trường, hoạt động tiêu chuẩn hóa vẫn đối diện nhiều thách thức, từ khoảng trống tiêu chuẩn, hạn chế về nguồn lực, năng lực thử nghiệm – đánh giá chưa theo kịp yêu cầu cho tới việc doanh nghiệp nhỏ và vừa còn khó tiếp cận, áp dụng.
Trong giai đoạn tới, việc phát triển hệ thống TCVN phục vụ chuyển đổi xanh cần được định hướng tổng thể, liên ngành và tích hợp, bảo đảm thống nhất giữa tiêu chuẩn, đo lường và đánh giá sự phù hợp, tránh manh mún. Các lĩnh vực chiến lược như năng lượng mới, vật liệu tái chế, quản lý carbon, đô thị thông minh và kinh tế tuần hoàn cần được ưu tiên. Hợp tác quốc tế cần được đẩy mạnh để rút ngắn thời gian xây dựng tiêu chuẩn và bảo đảm hài hòa với thông lệ quốc tế. Cùng với đó là yêu cầu tăng cường năng lực ban kỹ thuật, đầu tư cho phòng thí nghiệm và tổ chức chứng nhận, cũng như hỗ trợ doanh nghiệp – đặc biệt là doanh nghiệp nhỏ và vừa trong việc áp dụng tiêu chuẩn và sử dụng tiêu chuẩn như công cụ nâng cao năng lực cạnh tranh.
Tiêu chuẩn không chỉ là “hàng rào kỹ thuật” trong thương mại, mà quan trọng hơn, là “đường băng kỹ thuật” giúp Việt Nam cất cánh trên quỹ đạo tăng trưởng xanh, hiện thực hóa cam kết Net Zero vào năm 2050 và khẳng định vị thế trong chuỗi giá trị toàn cầu xanh, sạch và bền vững.

