Hoạt động của các tổ gồm thành lập tại mỗi khu dân cư, tuyển chọn thành viên tình nguyện hoặc bán chuyên trách có kỹ năng số, tổ chức tập huấn và hướng dẫn người dân cài đặt, sử dụng các ứng dụng và nền tảng số, từ định danh điện tử, bảo hiểm, sổ sức khỏe điện tử, thanh toán điện tử đến thương mại điện tử, đồng thời trực tiếp hỗ trợ tại chỗ.

Tài liệu của Tổ công nghệ số cộng đồng được số hóa.
Mô hình đã mang lại nhiều lợi ích thiết thực. Nhờ có lực lượng tại chỗ, người dân được hướng dẫn gần gũi, dễ hiểu, từ đó giảm khoảng cách số giữa các nhóm tuổi và vùng miền. Tổ CNSCĐ giúp người dân đăng ký, sử dụng dịch vụ công trực tuyến, nâng cao hiệu quả phục vụ của chính quyền địa phương. Đồng thời, hộ kinh doanh nhỏ, tiểu thương được hỗ trợ thanh toán điện tử, mở sàn thương mại, quảng bá sản phẩm, góp phần phát triển kinh tế số từ cơ sở.
Ngoài ra, việc tiếp cận, trải nghiệm công nghệ và nền tảng số giúp người dân hình thành thói quen sử dụng công nghệ, tham gia vào xã hội số. Mô hình cũng hỗ trợ thực hiện các mục tiêu chiến lược như tỷ lệ người dân có kỹ năng số, tỷ lệ tham gia dịch vụ số… Tổ CNSCĐ vừa là nhân tố triển khai, vừa là kênh phản hồi thực tiễn cho cơ quan quản lý.
Tại nhiều tỉnh, thành phố, các Tổ CNSCĐ đang đóng vai trò như cầu nối giữa chính quyền và người dân, giúp phổ biến kiến thức, hỗ trợ người dân sử dụng các dịch vụ công trực tuyến một cách hiệu quả. Mô hình Tổ CNSCĐ đã được triển khai rộng khắp tại các tỉnh, thành phố trên cả nước.
Theo thống kê đến tháng 9/2024, cả nước đã thành lập khoảng 93.524 Tổ CNSCĐ với gần 457.820 thành viên. Tại tỉnh Tuyên Quang, toàn tỉnh đã có 1.733 Tổ công nghệ số ở thôn, tổ dân phố; cùng với đó là 138 Tổ công nghệ số cấp xã, với tổng số trên 10 000 thành viên. Tại tỉnh Đắk Lắk, tính đến cuối tháng 6/2025 đã thành lập được 2.065 Tổ CNSCĐ với 12.572 thành viên. Những con số trên cho thấy mô hình Tổ CNSCĐ không chỉ được thành lập ở nhiều địa phương mà còn được kiện toàn ở cấp cơ sở (thôn, tổ dân phố, khu dân cư), đây là bước đi quan trọng để đưa chuyển đổi số đến tận người dân, hộ gia đình.
Việc duy trì hoạt động đều đặn của các tổ, đặc biệt ở vùng nông thôn, vùng sâu, vẫn cần được hỗ trợ thường xuyên về đào tạo và trang bị công cụ.
Kỹ năng số không chỉ là cài đặt ứng dụng mà còn phải hiểu và sử dụng hiệu quả, tránh tình trạng "chỉ biết cài mà không khai thác".
Cần có các thống kê định lượng để đánh giá hiệu quả: số lượng hộ được hỗ trợ, tỷ lệ sử dụng dịch vụ số tăng, tác động tới kinh tế số…
Việc kết nối và liên thông giữa nền tảng số quốc gia/địa phương và người dân cũng là yếu tố then chốt. Cần mở rộng mô hình không chỉ hướng tới người dân mà còn cả tiểu thương, hộ kinh doanh và doanh nghiệp siêu nhỏ, từ đó tạo chuỗi giá trị số từ cơ sở, góp phần thúc đẩy chuyển đổi số toàn diện.

