Sín Chải nằm ở độ cao hơn 1.400m, quanh năm mây mù quấn lấy những triền núi đá vôi. Trong không gian ấy, gần 4.000 cây chè Shan tuyết cổ thụ mọc rải rác khắp sườn núi, nhiều cây đã được công nhận là Cây di sản Việt Nam với thân to hơn 2 mét, tán rộng như cây rừng.
Những cây chè cổ thụ đứng sừng sững trong gió lạnh, mùa đông khẳng khiu giữa sương muối, nhưng đầu xuân lại bật lên những búp trà dày, phủ lớp lông trắng như tuyết. Đây chính là “chất liệu” làm nên bạch trà mẫu đơn, loại trà được chế biến hoàn toàn thủ công và chỉ hái trong khoảng thời gian ngắn đầu vụ xuân.

Mỗi mẻ trà phải đáp ứng điều kiện rất khắt khe: nhiều ngày nắng liên tục, thời tiết khô, lá trà sau khi hái được lên men tự nhiên từ 7 - 10 ngày trong nền nhiệt ổn định. Một thay đổi nhỏ về độ ẩm hay một trận mưa trái mùa cũng có thể khiến cả mẻ trà thất bại.
Bởi vậy, người Mông Sín Chải xem nghề làm trà như một phần của đời sống tinh thần. “Làm trà như chăm một sinh thể sống. Không thể vội vàng, phải kiên nhẫn để lá trà tự giải phóng tinh chất của nó”, một người dân chia sẻ. Họ giữ nghề bằng sự tỉ mỉ, bằng cả niềm tự hào và mong muốn phát triển sinh kế từ chính di sản của cha ông.
Trước đây, chè Shan tuyết chủ yếu được hái rồi bán cho thương lái với giá rất thấp. Cuộc sống của bà con phụ thuộc vào mùa vụ, bấp bênh theo thời tiết. Nhưng khi nhận ra giá trị đặc biệt của giống chè cổ thụ, họ đã thay đổi cách làm: gìn giữ, chăm sóc, chế biến và xây dựng thương hiệu.
Gia đình ông Hạng A Chư, một trong những hộ có số lượng cây chè cổ thụ lớn nhất thôn Hấu Chua là người tiên phong. Con trai ông, anh Hạng A Nhè, tiếp nối nghề bằng cách làm trà theo hướng chuyên nghiệp hơn: mã truy xuất nguồn gốc cho từng sản phẩm, mỗi cây chè đều có mã riêng để khách tìm hiểu.
Anh Nhè kể: “Chúng tôi chỉ hái trà vào buổi sáng, từ 7 đến 10 giờ. Mỗi bước của quy trình đều phải tuân thủ nghiêm ngặt, vì chỉ cần sai lệch nhiệt độ hay thời điểm sao trà cũng ảnh hưởng đến vị trà”.
Hiện toàn vùng Sín Chải – Sính Phình có gần 600ha chè, khoảng 1.200 hộ tham gia sản xuất. Chè cổ thụ gần 8.000 cây, sản lượng búp tươi mỗi năm khoảng 70 tấn, cho hơn 10 tấn thành phẩm. Nhờ chương trình OCOP cùng sự hỗ trợ của ngành Công Thương và Nông nghiệp, hai chuỗi sản phẩm của Sín Chải đã hình thành và liên kết với các doanh nghiệp chế biến.
Điều thú vị là dù thị trường đón nhận mạnh mẽ, người Sín Chải vẫn kiên định theo con đường “chất lượng hơn số lượng”. Bạch trà mẫu đơn có giá từ vài triệu đến vài chục triệu đồng mỗi kg, nhưng sản lượng rất hạn chế. Với họ, đây không chỉ là hàng hóa, mà là căn cước văn hóa của người Mông trên núi đá.

Tháng 6.2022, 100 cây chè Shan tuyết cổ thụ ở Hấu Chua và Sín Chải được công nhận là Cây di sản Việt Nam. Sự kiện này khiến cả vùng rộn ràng niềm tự hào. Lần đầu tiên, một giống cây đặc trưng của Tây Bắc được ghi danh, mở ra cơ hội phát triển du lịch trải nghiệm, bảo tồn giống chè bản địa và khai thác giá trị kinh tế bền vững.
Không chỉ bán trà, người dân bắt đầu đón khách tham quan, giới thiệu quy trình làm trà, kể câu chuyện của những gốc chè hàng trăm năm tuổi. “Khách đến, họ nói phải tận mắt thấy, tận tay sờ vào lớp tuyết trắng trên búp trà mới hiểu vì sao loại chè này quý đến vậy”, anh Nhè chia sẻ.
Hướng phát triển mới ấy không chỉ giúp bà con tăng thu nhập, mà còn giữ cho rừng chè cổ thụ tiếp tục sống, tiếp tục truyền đời như một báu vật của núi rừng.
Bạch trà mẫu đơn Sín Chải là ví dụ điển hình cho hướng đi “giảm nghèo từ di sản”. Khi người dân thay đổi tư duy từ khai thác sang gìn giữ, từ bán nguyên liệu thô sang chế biến tinh, giá trị tăng thêm đã giúp họ ổn định sinh kế, nâng cao đời sống.
Cây chè cổ thụ không còn chỉ là cây rừng, mà trở thành nền tảng cho một mô hình kinh tế xanh, nhân văn, gắn với bản sắc văn hóa và tiềm năng du lịch của địa phương.
Từ chén trà thơm giữa mây ngàn, người Mông Sín Chải đang viết nên câu chuyện làm giàu bền vững của chính mình – câu chuyện bắt đầu từ rừng già, từ những búp chè tinh khiết và từ khát vọng vươn lên của đồng bào vùng cao Điện Biên.

