
Người dân Tuyên Quang thực hiện đăng ký, kích hoạt tài khoản định danh điện tử.
Không chỉ dừng ở việc ban hành kế hoạch hay đề án, Tuyên Quang chuyển tinh thần của Nghị quyết vào hành động cụ thể, vào từng mô hình, từng con người, từng sản phẩm địa phương. Với quan điểm “khoa học và công nghệ là nền tảng, đổi mới sáng tạo là động lực, chuyển đổi số là phương thức phát triển”, tỉnh đang từng bước kiến tạo một hệ sinh thái mới, nơi tri thức trở thành tài sản và dữ liệu là nguồn lực phát triển.
Giai đoạn 2020 – 2025, Tuyên Quang triển khai hơn 100 đề tài, dự án khoa học với tổng kinh phí trên 110 tỷ đồng. Nhiều công trình đã đi vào thực tiễn đời sống: Công nghệ sinh học và bảo quản sau thu hoạch giúp nâng cao chất lượng cho chè Shan tuyết, cam Sành, bưởi Soi Hà, na dai, mật ong, dược liệu; các quy trình sản xuất chuẩn hóa giúp nông sản địa phương đạt tiêu chuẩn thương mại cao hơn, mở rộng thị trường tiêu thụ trong và ngoài nước.
Đặc biệt, tại Hợp tác xã Tuấn Dũng (Mèo Vạc), công nghệ hạ thủy phần được áp dụng để tách bớt nước trong mật ong Bạc hà, đưa tỷ lệ nước chỉ còn 16–19%, tăng khả năng bảo quản và giữ nguyên hương vị đặc trưng. Giám đốc HTX Thèn Văn Hải chia sẻ: “Nhờ công nghệ, mật ong của chúng tôi được khách hàng tin tưởng hơn, giá bán cao hơn, đầu ra ổn định hơn. Khoa học giờ đã trở thành ‘trợ thủ’ thực sự của nông dân”.
Nhờ hướng đi đúng, Tuyên Quang hiện có hơn 650 sản phẩm được bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp, trong đó có 12 chỉ dẫn địa lý, 18 nhãn hiệu chứng nhận và hàng trăm nhãn hiệu tập thể. Các sản phẩm OCOP được gắn mã QR truy xuất nguồn gốc, bán qua sàn thương mại điện tử và quảng bá bằng nền tảng số giúp thương hiệu nông sản Tuyên Quang lan tỏa rộng rãi, có chỗ đứng trên thị trường.
Cùng với việc phát triển sản phẩm, tỉnh đầu tư mạnh vào hạ tầng khoa học và công nghệ. Các trung tâm KHCN, Trung tâm Đổi mới sáng tạo và Trung tâm Chuyển đổi số được nâng cấp, phục vụ hiệu quả cho nghiên cứu, quản lý và kết nối doanh nghiệp. 100% văn bản hành chính của UBND tỉnh được xử lý trên môi trường điện tử; tỷ lệ dịch vụ công trực tuyến toàn trình đạt hơn 80%; mạng viễn thông và hạ tầng CNTT phủ toàn bộ cấp xã, đủ điều kiện vận hành chính quyền số, kinh tế số và xã hội số.
Dù vậy, Tuyên Quang cũng nhìn thẳng vào những điểm nghẽn: tỷ trọng kinh tế số mới đạt khoảng 7,2% GRDP; hạ tầng số vùng cao chưa đồng bộ; nhân lực công nghệ thông tin, trí tuệ nhân tạo, dữ liệu lớn còn thiếu; đầu tư cho khoa học và công nghệ mới đạt khoảng 0,45% GRDP. Việc chia sẻ dữ liệu giữa các ngành, các cấp vẫn cần được tăng tốc để hình thành hệ thống liên thông toàn tỉnh.
Để khắc phục những hạn chế này, tỉnh xác định tám hướng đi lớn cho giai đoạn 2025–2030: Hoàn thiện cơ chế chính sách; nâng tỷ lệ đầu tư ngân sách cho KHCN lên tối thiểu 1%; xây dựng cơ sở dữ liệu dùng chung, đồng bộ và an toàn; phát triển khu, cụm công nghiệp thông minh; mở rộng mô hình nông nghiệp số, chợ số, thương mại điện tử; thúc đẩy khởi nghiệp công nghệ; đẩy mạnh hợp tác với doanh nghiệp lớn như Viettel, VNPT, FPT; và chú trọng đào tạo nhân lực số từ cấp cơ sở.
Thực tế, nhiều mô hình đang mang lại kết quả tích cực. Các xã như Sơn Dương, Hàm Yên, Chiêm Hóa triển khai “nông thôn số”, “chợ số”, giúp người dân vùng cao bán nông sản qua điện thoại, nhận thanh toán điện tử và nộp hồ sơ trực tuyến. Các tổ công nghệ số cộng đồng, với hơn 1.800 thành viên, trở thành “hạt nhân chuyển đổi” ở cơ sở, giúp người dân từng bước hình thành kỹ năng số trong đời sống hàng ngày.
Trong tầm nhìn đến năm 2030, Tuyên Quang đặt mục tiêu đưa tỷ trọng kinh tế số chiếm tối thiểu 20% GRDP, 100% dịch vụ công được cung cấp trực tuyến toàn trình, và mọi người dân đều có thể tiếp cận dịch vụ số cơ bản. Trên nền tảng đó, khoa học và công nghệ sẽ không chỉ là công cụ, mà là “động cơ” phát triển của địa phương giúp Tuyên Quang rút ngắn khoảng cách với các tỉnh đồng bằng, hướng tới mục tiêu trở thành tỉnh phát triển khá trong khu vực trung du và miền núi phía Bắc.

