
Đây được xem là một trong những chương trình trọng điểm, mở đường cho Việt Nam làm chủ các công nghệ cốt lõi trong lĩnh vực vũ trụ - viễn thám, phục vụ phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm quốc phòng, an ninh và ứng phó với biến đổi khí hậu.
Theo GS.TS. Nguyễn Lạc Hồng, nguyên Phó Giám đốc Học viện Kỹ thuật Quân sự, Chủ nhiệm Chương trình KC.13/21-30, trong giai đoạn 2016 - 2020, chương trình công nghệ vũ trụ cấp quốc gia đã triển khai 38 nhiệm vụ và đạt được nhiều kết quả đáng khích lệ. Nhiều sản phẩm nghiên cứu đã được chuyển giao, ứng dụng vào thực tiễn, như hệ thống WebGIS phục vụ quản lý, giám sát tài nguyên, môi trường, thiên tai, chất lượng không khí và rừng; hệ thống ăng-ten bám kiểu Hexapod có khả năng thu phát tín hiệu, điều khiển vệ tinh quan sát Trái đất; phân hệ cao tần cho vệ tinh micro; hay bộ thu phát tín hiệu quang vô tuyến FSO, ứng dụng trong đánh giá và cảnh báo thiên tai, phục vụ sản xuất nông nghiệp, giao thông thông minh.
Một số sản phẩm khác cũng cho thấy khả năng nghiên cứu đa dạng và sáng tạo của các nhà khoa học Việt Nam, như: Vệ tinh siêu nhỏ cỡ nano quan sát Trái đất; khinh khí cầu và hệ thống thiết bị tầng bình lưu phục vụ truyền tin cứu hộ; chế phẩm sinh học phòng ngừa tác hại môi trường vi trọng lực, bức xạ vũ trụ; hay mẫu tên lửa thử nghiệm TV-01, TV-02 phục vụ thử nghiệm công nghệ đẩy vệ tinh. Những kết quả này là nền tảng quan trọng để Việt Nam bước tiếp giai đoạn mới với khát vọng làm chủ không gian.
Chương trình KC.13/21-30 đặt mục tiêu phát triển khoa học và công nghệ vũ trụ, viễn thám thành động lực kết nối các ngành công nghệ cao, thúc đẩy năng lực nghiên cứu, thiết kế, chế tạo, thử nghiệm và ứng dụng phục vụ phát triển kinh tế - xã hội.
Chương trình cũng hướng đến việc phát triển các công nghệ chọn lọc về thiết kế và chế tạo các hệ thống vệ tinh viễn thông, viễn thám, định vị, trạm mặt đất, thiết bị bay không người lái, khinh khí cầu…; đồng thời đẩy mạnh các nghiên cứu cơ bản trong các lĩnh vực như sinh học vũ trụ, vật lý thiên văn, cơ học bay, chế tạo vật liệu và cảm biến cho công nghệ vũ trụ, công nghệ đẩy vệ tinh.

Phát triển tiềm lực khoa học và công nghệ vũ trụ đủ mạnh để dần hình thành các năng lực riêng biệt.
Một trọng tâm quan trọng khác là phát triển vệ tinh siêu nhỏ quan sát Trái đất và làm chủ công nghệ chế tạo trạm mặt đất điều khiển, thu phát dữ liệu vệ tinh viễn thông, viễn thám. Cùng với đó, chương trình định hướng tích hợp dữ liệu vệ tinh với hạ tầng IoT, mạng thông tin 5G/6G, mở rộng khả năng ứng dụng trong dẫn đường, định vị chính xác cao, hệ thống quan trắc và giám sát tài nguyên, môi trường, thiên tai và biến đổi khí hậu.
Đáng chú ý, nhiều viện nghiên cứu, trường đại học và doanh nghiệp đã đề xuất các hướng nghiên cứu cụ thể, mang tính ứng dụng cao, như: Ứng dụng viễn thám đa nguồn, đa thời gian phục vụ giám sát, dự báo sớm hạn hán và thiếu nước tại Đồng bằng sông Cửu Long; định lượng đặc tính hình thái và hóa sinh từ dữ liệu vệ tinh quan sát Trái đất phục vụ canh tác lúa thích ứng biến đổi khí hậu và giảm phát thải khí nhà kính; hay giải pháp giám sát toàn diện rừng ngập mặn ven biển Việt Nam bằng dữ liệu viễn thám. Ngoài ra, còn có nghiên cứu ứng dụng công nghệ viễn thám đa tầng (vệ tinh, UAV, cảm biến mặt đất) kết hợp với các công nghệ số như học máy, điện toán đám mây, dữ liệu lớn, nhằm hỗ trợ nông nghiệp công nghệ cao, giám sát phát thải khí methane từ sản xuất lúa và các cây trồng chủ lực.
Việc đẩy mạnh các nghiên cứu ứng dụng công nghệ vũ trụ - viễn thám không chỉ mang lại lợi ích khoa học mà còn góp phần trực tiếp vào phát triển kinh tế - xã hội. Khi Việt Nam có thể làm chủ hệ thống vệ tinh và trạm mặt đất, dữ liệu viễn thám sẽ được khai thác tối đa, phục vụ quản lý tài nguyên, giám sát thiên tai, quy hoạch đô thị, nông nghiệp thông minh, logistics và hạ tầng giao thông. Đồng thời, năng lực làm chủ công nghệ không gian cũng tạo ra ý nghĩa chiến lược trong bảo vệ chủ quyền, an ninh, quốc phòng, đặc biệt là trong giám sát biển đảo và ứng phó thảm họa.
Tuy vậy, con đường phía trước còn không ít thách thức. Làm chủ các công nghệ lõi như vệ tinh, cảm biến, động cơ đẩy, xử lý dữ liệu lớn, hay tích hợp hệ thống không gian - mặt đất đòi hỏi nguồn nhân lực chất lượng cao, đầu tư tài chính lớn và sự hợp tác quốc tế sâu rộng. Tuy nhiên, với nền tảng sẵn có cùng tầm nhìn dài hạn, Việt Nam đang từng bước tiến vào kỷ nguyên công nghệ vũ trụ với tinh thần chủ động và tự cường.
Như chia sẻ của GS.TS. Nguyễn Lạc Hồng tại Hội thảo triển khai Chương trình KC.13/21-30 ngày 26/10/2023: "Chúng ta phải làm chủ, không chỉ ‘ngó’ công nghệ, mà phải sản xuất được công nghệ". Câu nói ấy thể hiện rõ quyết tâm của đội ngũ khoa học Việt Nam trong hành trình chinh phục không gian, một lĩnh vực đòi hỏi trí tuệ, sáng tạo và kiên định.
Chương trình KC.13/21-30 không chỉ là một kế hoạch nghiên cứu khoa học, mà còn là tuyên bố về khát vọng làm chủ công nghệ vũ trụ của Việt Nam. Từ chế tạo vệ tinh siêu nhỏ, động cơ phóng, trạm mặt đất, đến ứng dụng dữ liệu viễn thám phục vụ nông nghiệp, môi trường, biến đổi khí hậu, mỗi bước tiến đều góp phần khẳng định vị thế của đất nước trong hành trình khám phá không gian. Việt Nam đang bước vào "cuộc đua vũ trụ" bằng chính năng lực và khát vọng của mình, một hành trình dài, nhưng đầy hứa hẹn.

